Atonement Chuoc Toi
Trong những giây phút tỉnh táo anh lại thấy khó chịu. Không phải vì vết thương, mặc dù cứ mỗi bước chân nó lại nhói đau, và cũng không phải vì máy bay thả bom vần vũ trên bãi biển cách vài dặm về phương Bắc. Mà là tâm trí anh. Một cách định kỳ, thứ gì đó cứ tuột đi. Nguyên tắc thường nhật nào đó về sự tiếp diễn, cái nhân tố lặp đi lặp lại cho anh biết mình đang ở đâu trong câu chuyện của chính mình, đã bạc thếch đi vì dùng quá nhiều, bỏ lại anh với cơn mộng du trong đó những suy nghĩ có tồn tại, nhung chẳng thể nào thấy được ai đang mang những suy nghĩ ấy. Không trách nhiệm, không ký ức về những giờ trước đó, không biết mình đang định làm gì, mình đang đi đâu, kế hoạch thế nào. Và không tò mò về những chuyện đó. Chừng đó anh thấy mình kẹt trong cái siết chặt của những điều chắc chắn phi logic.Anh ở trong trạng thái này khi họ vòng qua rìa phía Đông khu nhà nghỉ sau ba giờ cuốc bộ. Họ đi xuống một con đường đầy những mảnh vụn thủy tinh và gạch nát nơi bọn trẻ con đang chơi đùa và xem lính đi qua. Nettle đã xỏ bốt lại, nhưng gã để dây lòng thòng. Đột nhiên, như một con rối trong hộp đồ chơi, một trung úy từ Trung đoàn Dorset thò lên từ hầm một tòa nhà công sở bị trưng dụng thành sở chỉ huy. Hắn tiến về phía họ với vẻ ngạo mạn, tay cắp cặp. Khi hắn dừng lại trước họ, họ chào. Ngứa mắt, hắn ra lệnh cho Nettle buộc dây giày lại ngay lập tức nếu không sẽ nhận hình phạt.Khi tay hạ sĩ quỳ xuống làm theo, tay trung úy - vai tròn, xương xâu, dáng vẻ của kẻ suốt ngày cạo giấy và một mớ ria hoe vàng - nói, "Mày đúng là một nỗi ô nhục mắc dịch."Trong sự tự do tỉnh táo của trạng thái mơ màng, Turner định bắn xuyên ngực tay sĩ quan này. Sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người. Cũng chẳng đáng phải bàn bạc chuyện này trước. Anh thò tay lấy súng, nhưng nó đã rơi mất - anh không nhớ nổi chỗ nào - và tên trung úy đã bỏ đi khá xa rồi.Sau vài phút lạo xạo trên thủy tinh, dưới giày họ đột ngột yên tĩnh khi cuối đường là cát mịn. Khi đi lên qua những chỗ nhấp nhô trên cồn cát, họ nghe tiếng biển và nếm đầy miệng vị mặn rồi mới nhìn thấy nó. Mùi vị của những kỳ nghỉ. Họ rời khỏi con đường và leo lên những đụn cỏ đến chỗ cao nhất và lặng thinh đứng đó suốt mấy phút liền. Gió ẩm mát lành thổi từ Channel làm sống lại sự tỉnh táo trong anh. Có lẽ không gì hơn ngoài nhiệt độ trong người anh lên rồi xuống theo từng đợt.Anh đã tưởng mình không hề trông mong gì - cho đến khi nhìn thấy biển. Anh đã nghĩ rằng cái tinh thần lì lợm của cái đội quân khi đối mặt với khả năng bị hủy diệt vẫn có thể đi sơn đá trắng rồi sẽ thắng thế. Giờ anh cố áp trật tự lên chuyển động ngẫu nhiên trước mặt anh, và suýt thành công: những trung tâm tổ chức, những chuẩn úy đằng sau mấy cái bàn tạm bợ, những con dấu cao su và biên lai, những đường phân cách bằng dây thừng dẫn về phía những con tàu nằm đợi; những trung úy quát nạt ầm ĩ, những hàng người mệt mỏi quanh các căng tin dã chiến. Nhìn chung, chỗ kết cho mọi khởi đầu riêng tư. Dẫu anh không hề biết, đó mới là bãi biển mà anh đã đi bộ hàng bao ngày trời mong đến được. Nhưng bãi biển thực sự, bãi biển mà giờ anh và hai tay hạ sĩ đang nhìn đăm đăm xuống, không gì hơn là một biến thể của tất cả những thứ đã diễn ra trước đó: có một thất bại thảm hại, và đây là trạm cuối của nó. Giờ họ nhìn thấy rồi thì đã quá rõ ràng - đây là điều sẽ xảy ra khi một cuộc rút lui hỗn loạn không thể tiến xa hơn được nữa. Chỉ cần vài giây để thích nghi lại. Anh thấy hàng ngàn người, mười, hai mười ngàn, có khi hơn, tản khắp bãi biển rộng mênh mông. Nhìn xa xa, họ như những hạt cát đen. Nhưng không có tàu, ngoài một cái thuyền săn cá voi lật úp dập dềnh ngoài sóng đằng xa. Thủy triều thấp và còn đến một dặm nữa mới tới mép nước. Không thuyền bè gì chỗ cầu tàu dài. Anh chớp mắt rồi nhìn lần nữa. Cầu tàu đó được tạo nên từ dòng người, một dòng người dài, bề ngang cũng phải đến sáu hay tám hàng, lội xuống nước ngang đầu gối, ngang hông, ngang vai, kéo dài đến năm trăm mét trên vùng nước nông. Họ đợi, nhưng trước mắt chả có gì, trừ phi ta tính cả những vết lờ mờ trên đường chân trời kia - tàu thuyền cháy sau một trận không kích. Trong vài giờ tới sẽ không gì có thể vào đến bờ. Nhưng binh lính đứng đó, đối diện với đường chân trời, đầu đội mũ thiếc, súng nâng cao lên khỏi sóng. Từ khoảng cách này trông họ điềm đạm như bầy gia súc.Và những người đó chỉ là một phần nhỏ trong toàn thể. Đa phần là ở trên bãi biển, thơ thẩn không mục đích. Vài nhóm nhỏ quây lại quanh những người bị thương trong cuộc tấn công vừa đấy của Stuka. Cũng tha thẩn như con người, nửa chục ngựa kỵ binh phi nước đại theo bầy cạnh mép nước. Một vài tay lính định lật chiếc thuyền đánh cá voi kia lại. Vài người đã cởi quần áo ra để bơi. Phía Đông đang có một trận bóng đá, và cũng từ hướng đó vẳng đến giai điệu yếu ớt một bài thánh ca do nhiều người hợp xướng nhưng rồi lặng dần đi. Bên ngoài nơi diễn ra trận bóng đá là dấu hiệu duy nhất cho thấy hoạt động của nhà chức trách. Trên bãi biển, xe tải đang xếp hàng và nối lại với nhau thành một cầu tàu tạm. Nhiều xe tải hơn đang tiếp tục chạy tới. Gần hơn, ngược lên trên bãi cát, một số người đang dùng mũ xúc cát làm hố cá nhân. Trên cồn cát, gần nơi Turner và hai hạ sĩ đứng, một số người đã đào hố cho riêng mình, từ đó họ nhòm ra, vẻ ông chủ và tự mãn. Như con mácmôt, anh nghĩ. Nhưng đa phần quân đội thì tha thẩn vô mục đích trên bãi cát, như công dân của một thành phố Ý trong giờ passeggio. Họ chả thấy trước mắt có lý do gì phải nhập vào cái dòng người khổng lồ kia, nhưng họ không chịu đi khỏi bãi biển vì biết đâu tự dưng có thuyền xuất hiện.Bên trái là khu nghỉ dưỡng Bray, một mặt tiền nhộn nhịp những quán cà phê và cửa hàng nhỏ vào mùa bình thường sẽ cho thuê ghế ngồi bãi biển và xe đạp. Trong một công viên hình tròn cỏ được cắt tỉa cẩn thận là một bục dàn nhạc và một vòng quay ngựa gỗ sơn đỏ, trắng, xanh. Giữa cảnh ấy, một đại đội khác, thờ ơ hơn, đã bắt tay vào việc. Binh lính đã mở vài hàng cà phê cho riêng họ và say xỉn ở mấy cái bàn ngoài trời, nói ông ông và cười đùa. Người ta nô giỡn trên xe đạp dọc vỉa hè đầy vết nôn mửa. Một đoàn những kẻ say túa ra trên bãi cỏ cạnh bục dàn nhạc mà ngủ gục. Một tay tắm nắng lẻ loi mặc độc quần lót, mặt úp xuống khăn tắm, vai và chân loang lổ vết cháy nắng - hồng và trắng như kem dâu tây với vani.Chọn gì trong những vòng đày đọa này thì không khó - biển, bãi biển, mặt tiền toàn tiệm cà phê và cửa hàng nhỏ ấy. Hai hạ sĩ dợm bước bỏ đi. Riêng cái khát thôi đã quyết định điều ấy. Họ tìm thấy một con đường bên dải đất liền cạnh những cồn cát, rồi họ băng qua bãi cỏ lộn nhộn cát vương đầy chai vỡ. Khi họ đi vòng qua những bàn khàn khàn những giọng, Turner thấy một nhóm lính hải quân đang tiến dọc mặt tiền ấy, liền dừng chân nhìn. Có năm người, hai sĩ quan, ba hạ sĩ quan, một nhóm sáng chói những trắng, lam, vàng. Không chịu ngụy trang. Lưng thẳng tắp, nghiêm, súng lục giắt thắt lưng, họ đi với nét uy quyền lặng lẽ xuyên qua đống quân phục ảm đạm và khuôn mặt cáu bẳn, nhìn hết bên này bên kia cứ như đang đếm. Một tay sĩ quan ghi chép lên một cái bảng. Họ tiến về phía bãi biễn. Với cảm giác bị bỏ rơi rất trẻ con trỗi dậy, Turner nhìn cho đến khi họ mất dạng.Anh theo sau Mace và Nettle tiến vào không khí hôi hám sặc khói cùng tiếng ồn đinh tai nhức óc của quán bar đầu tiên nơi mặt tiền. Trên quầy bar có hai va li mở toang đầy thuốc lá, nhưng không có gì để uống. Mấy cái giá chạy dọc theo tấm gương đánh bóng bằng cát đằng sau quầy bar trống không. Khi Nettle chúi vào sau quầy rượu lục lọi, chỉ có lời giễu cợt. Ai vào đây cũng đã làm y hệt thế. Đồ uống đã bị mấy tay bợm nhậu ngoài kia nốc sạch từ lâu. Turner chen qua đám đông xuống một bếp nhỏ phía sau. Nơi này hoang tàn, vòi nước khô cong. Bên ngoài là chỗ đi tiểu và sọt không chồng thành đống. Một con chó đang cố thò lưỡi vào trong hộp cá xác đin rỗng, đẩy cái hộp đi cả một đoạn trên nền bê tông. Anh quay vào lại phòng chính và những giọng nói ầm ĩ ở đó. Không có điện, chỉ ánh sáng mặt trời ố nâu, như thể do màu của thứ bia không có kia. Không có gì uống, nhưng quán bar vẫn nghẹt người. Người ta vào, thất vọng, vậy mà vẫn ở lại, bị cầm chân bởi thuốc lá hút miễn phí và vết tích của cuộc túy lúy vừa xong. Máy rót bia trống không treo vẹo vọ trên tường, những chai lộn ngược đã bị giật đi mất. Mùi cồn ngòn ngọt bốc lên từ sàn xi măng nhóp nhúa. Tiếng ồn cùng những cơ thể người chen chúc và mùi thuốc lá ẩm ướt làm thỏa mãn cơn nhớ nhà thèm muốn một tối thứ Bảy nơi quán rượu. Đây là đường Mile End, là phố Sauchiehall, và mọi chốn giữa hai nơi đó.Anh đứng trong tiếng ồn ã, không biết phải làm gì. Chen ra khỏi đám đông này cũng mất khá công sức. Hôm qua đã có tàu, anh nghe được vậy từ một mẩu nói chuyện, và có khi mai cũng có. Kiễng chân trên bậu cửa bếp, anh nhún vai ý bảo "xui-rồi" về phía hai hạ sĩ ở phía bên kia đám đông. Nettle hất đầu về phía cửa và họ bắt đầu cùng hướng về đó. Được một cốc rượu thì cũng ngon, nhưng thứ họ muốn bây giờ là nước. Chen lấn qua đám người đông nghẹt này mà tiến thì thật quá chậm, thế rồi, ngay khi họ gặp được nhau, lối ra lại bị chắn bởi một bức tường lưng vây kín nghịt quanh một người.Hắn ta hẳn là lùn tịt - chưa đến mét sáu tám - và Turner không thấy phần nào của hắn trừ phía sau đầu.Có người nói, "Mày trả lời cái câu hỏi chết mẹ đó đi, thằng lỏi con chết dấp kia.""Phải, trả lời đi.""Này, thằng quân tử đểu. Lúc đó mày ở đâu?" "Mày ở đâu khi bọn nó giết đồng đội của tao?"Một miếng nước bọt văng vào phía sau đầu tay kia và rớt xuống ở chỗ sau tai. Turner đi vòng sang để nhìn. Đầu tiên anh thấy áo khoác xanh xám, rồi vẻ sợ hãi chết lặng trên mặt người đàn ông. Đó là một tay nhỏ người săn chắc, đeo kính dày cộp bám bẩn khiến cho ánh mắt sợ hãi càng bị khuếch đại. Trông anh ta như một nhân viên văn thư, hay điện thoại viên, có lẽ từng làm việc tại một tòa nhà chỉ huy nào đó đã bị giải tán từ lâu. Nhưng anh ta là người của RAF và lính Anh coi anh ta phải có trách nhiệm giải thích. Anh ta từ từ xoay người, nhìn vào vòng tròn những kẻ đang tra hỏi. Anh ta không có lời đáp cho câu hỏi của họ, nhưng cũng chẳng nỗ lực chối bỏ trách nhiệm của mình về sự vắng mặt của những chiếc spitfire và Hurricane trên bãi biển. Tay phải anh ta bíu chặt vào mũ đến nỗi khớp ngón run lẩy bẩy. Một pháo thủ đứng cạnh cửa xô mạnh vào lưng khiến anh ta loạng choạng nhào từ phía này sang phía kia vòng người rồi ngã dúi dụi vào ngực một tay lính, tay này ném anh ta bật ngửa ra sau bằng một cú đấm ngay đầu. Tiếng tán thưởng vang lên. Ai cũng đã phải chịu khổ sở, và giờ có kẻ phải trả giá."Thế RAF đâu?"Một bàn tay vụt ra tát bốp vào mặt anh ta, đập văng kính xuống sàn. Tiếng cú đánh chính xác như một tiếng roi quất. Đây là tín hiệu cho một giai đoạn mới, một mức độ nhập cuộc mới. Đôi mắt trần của anh ta co rút lại thành hai chấm nhỏ xíu chóp liên hồi khi anh ta ngồi thụp xuống mò mẫm quanh chân mình. Một sai lầm. Một cú đá từ một cái bót nhà binh bọc thép giáng ngay vào mông anh ta, làm anh ta bật dậy chừng dăm phân. Tiếng cười nắc nẻ rộ lên khắp xung quanh. Cảm giác một thứ gì đó ngon lành đang sắp sửa xảy ra lan khắp quầy bar và hút thêm lính tới. Khi đám đông phình to lên quanh vòng tròn, bất cứ cảm giác trách nhiệm cá nhân nào còn lại đều rơi tuột mất. Sự liều lĩnh vênh vang dần thống trị.Tiếng hô vang dậy khi có người dụi thuốc lá lên đầu anh chàng kia. Họ cười phá lên khi nghe tiếng kêu ăng ẳng tức cười của anh ta. Họ ghét anh ta, mà anh ta cũng đáng phải chịu mọi thứ đang xảy đến với mình. Anh ta phải chịu trách nhiệm cho việc Không quân Đức tự do bay trên trời, cho mỗi đợt Stuka tấn công, cho cái chết của từng người bạn. Cái khung người yếu ớt kia chứa đựng mọi nguyên nhân khiến một đội quân bại trận. Turner nghĩ mình chẳng thể làm được gì giúp người kia mà không có nguy cơ chính mình bị đem xử đẹp. Nhưng không thể không làm gì. Tham gia thì tốt hơn là không gì cả. Phấn khích một cách khó chịu, anh nhoài người tới trước. Giờ, một giọng xứ Wales vút lên câu hỏi."RAF đâu?"Thật kỳ quái khi người kia không hề kêu gào giúp đỡ, hay van xin, hay cam đoan mình vô tội. Sự im lặng của anh ta cứ hệt như anh ta đã thông đồng với số phận mình. Anh ta ngờ nghệch đến nỗi không nghĩ ra nổi là mình có thể sắp chết ư? Đầy ý thức, anh ta gập kính cho vào túi. Không có kính mặt anh ta trống rỗng. Như con chuột chũi dưới ánh sáng chói lòa, anh ta hé mắt nhìn quanh những kẻ hành hạ mình, môi hé ra, lộ vẻ hoài nghi nhiều hơn là cố nói một tiếng. Vì không thể thấy chuyện gì sắp tới, anh ta hứng trọn một cú đánh vào mặt. Lần này là một cú đấm. Khi đầu anh ta oặt ra sau, một cái bốt khác nện vào ống quyển anh ta và tiếng cổ vũ nho nhỏ vang lên, lác đác vài tiếng vỗ tay, như thể dành cho một cú nhoài người bắt bóng chuẩn xác trên bãi cỏ xanh của làng. Thật điên rồ nếu đứng ra bảo vệ người kia, nhưng sẽ thật kinh tởm nếu không làm thế. Đồng thời, Turner cũng hiểu cơn phấn khích đang lan giữa những kẻ hành hạ kia và cũng hiểu nó có thể lấy mạng anh bằng cách quỷ quyệt đến thế nào. Chính anh cũng có thể làm gì đó tàn bạo bằng cây mác của mình và giành được sự sủng ái của một trăm con người. Để tránh xa khỏi ý nghĩ ấy, anh buộc mình phải ngó chừng hai hay ba tay lính khác trong vòng tròn mà anh nghĩ là to con hoặc khỏe hơn mình. Nhưng nguy hiểm thật sự lại đến từ chính đám đông, cái não trạng tự cho mình chính nghĩa của nó. Không gì có thể ngăn cản khoái cảm của nó được.Tình hình bây giờ lên đến mức bất cứ ai tung cú đánh tiếp theo sẽ phải giành được sự ủng hộ của mọi người bằng cách tỏ ra khéo léo hoặc vui nhộn. Có một bầu không khí háo hức muốn làm hài lòng mọi người bằng cách tỏ ra sáng tạo. Không ai muốn làm gì lạc điệu. Trong vài giây, điều kiện này có phần khiến mọi người ngần ngại. Nhưng rất nhanh, chỉ một chút nữa, Turner hiểu điều này từ những ngày ở Wandsworth, một cú đánh thôi là sẽ trở thành một trận đòn như thác đổ. Rồi sẽ không có đường mà quay lại, và với tay RAF kia chỉ có một kết cục duy nhất. Một cục sưng màu hồng đã nổi trên gò má dưới mắt phải anh ta. Anh ta đã giơ tay lên che dưới cằm - anh ta vẫn níu chặt lấy cái mũ đội trên đầu - và vai anh ta rụt lại. Đó có thể là thế tự vệ, nhưng nó cũng là một động tác biểu thị sự yếu ớt và khuất phục càng làm dấy thêm bạo lực. Nếu như anh ta nói gì đó, bất cứ cái gì, binh lính quanh anh ta may ra còn nhớ anh ta là một con người, không phải con thỏ sắp sửa bị lột da. Tay người Wales đã cất tiếng hỏi kia là một tên lùn tịt, chắc nịch, người của lực lượng công binh. Giờ gã rút thắt lưng ra giơ lên cao."Các chú nghĩ sao đây?"Giọng điệu chính xác, đầy ẩn ý của hắn gọi đến sự ghê rợn mà Turner ngay tức thời không hiểu ra được. Giờ là cơ hội hành động cuối cùng của anh. Khi anh nhìn quanh quất tìm hai hạ sĩ, có một tiếng gầm ngay cạnh đó, như tiếng một con bò mộng bị giáo đâm. Đám đông ngả nghiêng và loạng choạng khi Mace xông qua họ vào trong vòng tròn. Với giọng hét hoang dại chuyển từ trầm sang kim, như Tarzan do Johnny Weissmuller đóng, gã bế anh chàng văn thư từ phía sau kiểu gấu ôm, nâng anh ta lên cách khỏi mặt sàn gần nửa mét, và lắc cái sinh vật đang khiếp đảm kia từ bên này sang bên kia. Có tiếng hoan hô và huýt sáo, chân giẫm ầm ầm và tiếng hò reo kiểu cao bồi."Tôi biết mình muốn xử thằng này thế nào," Mace gầm vang. "Tôi muốn dìm chết mẹ nó xuống biển!"Đáp lại, ầm vang lên một trận giẫm chân và huýt sáo nữa. Nettle đột nhiên đứng ngay cạnh Turner và họ liếc nhau. Họ đoán Mace sắp sửa làm gì và họ bắt đầu dịch ra phía cửa, biết rằng mình phải nhanh lên. Không phải ai cũng ham hố chuyên dìm người xuống biển. Ngay cả vào lúc điên loạn nhất, vài người vẫn có thể nhớ ra là mép nước cách đó đến một dặm. Riêng tay người Wales cảm thấy mình bị xỏ mũi. Hắn giơ đai nịt lên mà gào. Có tiếng huýt sáo lẫn với êu êu và hoan hô. Vẫn ôm nạn nhân trong tay, Mace lao ra cửa. Turner và Nettle đi phía trước gã, rẽ đường qua đám đông. Khi họ tới lối ra - rất có ích, cửa đơn chứ không phải đôi - họ cho Mace qua, rồi đứng chắn lối, vai kề vai, mặc dù tỏ vẻ là không làm như vậy, vì họ cũng gào hét và dứ dứ nắm đấm lên như mọi kẻ khác. Họ cảm thấy những thân người phấn khích áp vào lưng mình với sức nặng khổng lồ mà họ chỉ chống đỡ được trong vài giây. Thế là đủ thì giờ cho Mace chạy, không phải ra biển, mà ngoặt phát sang trái, lại trái, lên một con đường hẹp vòng vèo sau các cửa hàng và quán rượu, cách xa khỏi mặt tiền.Đám đông hoan hỉ đổ ào từ quán bar ra như rượu sâm banh, gạt Turner và Nettle sang bên. Ai đó nghĩ mình thấy Mace chạy xuống bãi cát, và trong vòng nửa phút, đám đông đi theo hướng này. Đến lúc đám đông nhận ra không phải thế mà bắt đầu quay lại, thì không còn dấu vết nào của Mace và kẻ kia nữa. Turner và Nettle cũng bốc hơi nốt.Bãi biển mênh mông, hàng ngàn người đợi chờ, và biển không một con tàu đẩy những tay lính Anh trở về nghịch cảnh của họ. Họ tỉnh lại từ một giấc mơ. Đằng Đông xa nơi đêm đang dâng lên, tuyến vành đai đang bị pháo oanh tạc dữ dội. Kẻ thù đang đến gần còn nước Anh thì còn xa đây lắm. Trong cái ánh sáng tù mù này không còn nhiều thời gian tìm một chỗ mà ngả lưng. Gió lạnh từ eo Channel thổi vào, mà măng tô thì nằm mãi sâu trong nội địa bên lề đường. Đám đông bắt đầu giải tán. Tay RAF đã bị quên lãng.Với Turner có vẻ như anh và Nettle đã khởi sự đi tìm Mace, rồi lại quên mất. Họ hẳn đã lang thang khắp đường một lúc, muốn chúc mừng gã vì pha giải cứu và cười đùa chút đỉnh. Nhưng rồi Turner không biết làm thế nào mình và Nettle lại đến đây, ở cái con đường hẹp này. Anh không nhớ khoảng giữa thế nào, chân đau ra sao - nhưng giờ anh ở đây, dùng những từ ngữ lịch sự nhất nói chuyện với một bà già đứng ở bậu cửa hiên trước một căn nhà. Khi anh nhắc đến nước, bà ngờ vực nhìn anh, như thể bà biết anh không chỉ muốn mỗi nước. Bà khá đẹp lão, da nâu, ánh mắt kiêu hãnh và mũi dọc dừa, một cái khăn hoa lá trùm lên mái tóc bạc. Ngay lập tức anh hiểu bà là một người Digan không bị tiếng Pháp của anh lừa mị. Bà nhìn thẳng vào anh và thấy hết sở đoản của anh, biết anh đã từng ở tù. Rồi bà khó chịu liếc Nettle, rồi cuối cùng chỉ ra dọc theo con đường đến chỗ một con lợn đang sục mũi trong máng nước."Mang nó lại đây," bà nói, "rồi tôi xem có gì cho các anh.""Mẹ nó," Nettle nói ngay khi Turner dịch lại. "Chúng ta chỉ xin một cốc nước mắc dịch thôi mà. Chúng ta sẽ vào trong lấy."Nhưng Turner, cảm thấy mình bị một ảo tượng quen thuộc ngự trị, không thể phủi đi khả năng rằng bà già này mang trong mình ít nhiều quyền năng. Dưới ánh đèn tù mù không gian trên đầu bà đang đập theo nhịp trái tim anh. Anh dựa vào vai Nettle cho vững. Bà ta đang đặt bẫy thử anh, anh thừa từng trải, thừa cẩn trọng để mà cự tuyệt. Anh là một tay lão luyện, về gần đến nhà thế này rồi, anh sẽ không sập cái bẫy nào cả. Tốt nhất là cứ cẩn thận làm theo."Mình sẽ mang con lợn đến," anh nói với Nettle. "Một phút chứ mấy."Nettle đã quá quen việc làm theo những đề xuất của Turner, vì nói chung là chúng hợp lý, nhưng khi họ bắt tay vào việc tay hạ sĩ này lầm bầm, "Ông có gì đó không ổn, Cha nội ạ."Chân bị rộp nên họ đi rất chậm. Ả lợn nái còn tơ, nhanh nhẹn và yêu cái tự do ả đang hưởng. Mà Nettle thì sợ ả. Khi họ dồn được ả vào bậu cửa một cửa hàng, ả chạy xồ vào gã và gã nhảy qua một bên gào toáng lên hoàn toàn không có vẻ tự giễu chút nào. Turner quay lại chỗ bà già định lấy một đoạn dây thừng, nhưng không ai ra mở cửa, mà anh cũng không chắc mình có vào đúng nhà không. Tuy nhiên, giờ anh chắc rằng nếu không bắt được con lợn, họ sẽ chẳng bao giờ về được nhà. Anh lại đang ngây ngấy sốt, anh biết, nhưng điều ấy không khiến anh sai lầm. Con lợn đồng nghĩa với thành công. Khi còn nhỏ, Turner từng cố thuyết phục minh rằng ngăn cho mẹ không đột tử bằng cách tránh những viên gạch nứt ở ngoài sân trường là một điều vớ vẩn. Nhưng anh cũng chưa bao giờ giẫm lên chúng và bà đã không chết.Khi họ ra lại ngoài đường, vẫn không tài nào mà bắt lại ả lợn cho được."Mẹ kiếp," Nettle nói. "Mình không thể làm thể này được."Nhưng chả còn lựa chọn nào khác. Turner cắt một sợi cáp từ cột điện đổ và buộc một cái thòng lọng. Họ đuổi theo ả lợn nái dọc con đường men theo rìa khu nghỉ dưỡng với những căn bungalow phía trước có những mảnh vườn nho nhỏ rào kín. Họ đi mở cổng trước từng nhà cả hai bên đường. Rồi họ đi xuống một đường nhánh để dụ con lợn và đuổi nó về lại theo đường cũ. Đúng như dự đoán, nó chạy vào vườn và bắt đầu dũi cây. Turner khép cửa lại, nhoài người qua hàng rào, thả thòng lọng qua đầu con lợn.Phải mất toàn bộ sức lực còn lại họ mới kéo được ả lợn nái kêu eng éc kia về lại nhà. May mắn thay, Nettle biết nó sống ở nhà nào. Khi cuối cùng họ cũng buộc được nó trong cái chuồng tin hin ở vườn sau, bà già mang ra hai bình nước bằng đá. Bà nhìn họ, còn họ sung sướng đứng uống trong cái sân bé tí cạnh cửa bếp. Ngay cả khi bụng gần như bục toác ra, miệng họ còn thèm thuồng được uống nữa và họ tiếp tục. Rồi bà già mang cho họ xà phòng, giẻ chùi bằng vải nỉ và hai cái chậu men để rửa ráy. Khuôn mặt nóng bừng của Turner làm nước biến sang màu nâu xỉn. Mấy vết máu khô đóng ở môi trên bượt hẳn đi thật dễ chịu. Khi rửa xong, anh cảm thấy trong không khí quanh mình một sự nhẹ nhõm dịu dàng đang trượt mềm mại như lụa lên da anh và qua lỗ mũi. Họ đổ nước bẩn vào góc bụi hoa mõm chó mà, Nettle nói, làm gã nhớ nhà, nhớ vườn sau nhà cha mẹ gã. Bà già Digan đổ đầy bi đông nước của họ và mang đến cho mỗi người một lít rượu đỏ, nút chai đã kéo ra một nửa và một cái xúc xích lớn mà họ nhét vào túi dết. Khi họ toan đi khỏi, bà nảy ra một ý và vào lại trong nhà. Bà trở ra, tay cầm hai túi giấy nhỏ, mỗi túi đựng nửa chục quả hạnh bọc đường.Nghiêm nghị, họ bắt tay nhau. "Chúng tôi sẽ nhớ lòng tốt của bà đến tận cuối đời," Turner nói.Bà gật đầu, và anh nghĩ bà nói, "Con lợn của ta sẽ luôn khiến ta nhớ đến các cậu." Nhưng vẻ lạnh lùng trên mặt bà không đổi, nên không thể biết được trong lời bà có ý lăng mạ, hay hài hước, hay một ẩn ý gì. Bà có nghĩ họ không đáng hưởng lòng tốt của bà? Anh ngượng ngùng quay lưng đi, và rồi họ bước đi trên con đường và anh dịch lại lời bà nói cho Nettle. Tay hạ sĩ chả ngờ hoặc gì hết."Bà ấy sống một mình và yêu con lợn. Theo đúng lý mà nói. Bà ấy biết ơn bọn mình." Rồi gã nghi ngờ chêm thêm, "Ông vẫn thấy trong người ổn đấy chứ, Cha nội?""Cực kỳ ổn, cám ơn."Bị vết rộp hành hạ, họ khập khiễng quay lại hướng bãi biển với ý nghĩ sẽ tìm Mace và chia đồ ăn thức uống. Nhưng sau khi bắt được con lợn, Nettle nghĩ, giờ mà có khui một chai ra thì cũng công bằng thôi. Niềm tin của gã vào khả năng nhận định của Turner đã phục hồi. Họ vừa đi vừa chuyền chai rượu cho nhau. Ngay cả trong bóng chiều chạng vạng, vẫn nhìn thấy được đám khói đen phía trên Dunkirk. Ở hướng khác, giờ họ đã có thể thấy lằn đạn chóp lóe lên. Ở vành đai phòng thủ tình hình chiến sự không dịu đi chút nào."Tội nghiệp mấy gã khốn khổ," Nettle nói.Turner biết gã đang nói đến những kẻ ở ngoài lán chỉ huy tạm thời kia. Anh nói, "Phòng tuyến không chịu được lâu nữa.""Chúng ta sẽ bị xéo nát.""Vì thế tốt hơn mai chúng ta nên lên tàu."Giờ họ không còn khát nữa, tâm trí bắt đầu nghĩ đến bữa tối. Turner đang nghĩ đến một căn phòng yên ắng và một cái bàn vuông phủ khăn vải bông xanh lá cây, có những ngọn đèn dầu bằng sứ kiểu Pháp treo trên ròng rọc rủ từ trần xuống. Và bánh mì, rượu, pho mát và xúc xích lớn cắt ra trên thớt gỗ.Anh nói, "Tôi nghĩ bãi biển không phải là nơi hoàn hảo nhất để ăn tối.""Bọn mình có thể bị cướp mà không biết gì," Nettle đồng ý. "Tôi nghĩ tôi biết loại nơi mình cần rồi."Họ trở lại trên đường sau quán bar. Khi liếc vào cái ngõ họ đã chạy vào, họ thấy những dáng người di động trong bóng nhập nhoạng hằn rõ trên ánh lấp lánh cuối cùng của biển, và cách xa phía họ, về một phía, là một khối sẫm hon có lẽ là đám lính trên bãi biển hay cồn cỏ hay thậm chí chính là những cồn cát. Tìm Mace khi trời còn sáng đã khó, giờ thì bất khả. Thế là họ tiếp tục lang thang, tìm kiếm một nơi nào đó. Trong phần này của khu nghỉ dưỡng giờ có hàng trăm lính, rất nhiều trong số họ tụ tập thành từng toán ầm ĩ, vạ vật khắp đường phố, hát hò và la hét ỏm tỏi.Nettle thả chai rượu vào túi dết. Không có Mace họ thấy dễ bị tấn công hơn.Họ đi qua một khách sạn bị đánh bom. Turner tự hỏi có cái phòng khách sạn nào như anh đã nghĩ đến không. Nettle thì bị ý nghĩ lôi từ đó ra một bộ chăn gối choán hết đầu óc. Họ vào qua một lỗ trên tường, mò mẫm trong bóng tối, qua gạch vụn và kèo cột đổ, và tìm thấy cầu thang. Nhưng hàng đống người cũng nghĩ hệt như thế. Quả thực có cả một hàng người đang tụ lại dưới chân cầu thang, và lính tráng lặc lè bê những tấm đệm lông ngựa nặng trịch xuống. Ở chiếu nghỉ phía trên - Turner và Nettle chỉ có thể thấy những đôi bốt và phần chân bên dưới khó nhọc chuyển từ bên này sang bên kia - đang có va chạm dẫn tới đánh nhau, tiếng gầm gừ giằng co và tiếng khớp xương nện vào da thịt kêu răng rắc. Sau một tiếng hét bất ngờ, vài người ngã ngửa xuống cầu thang vào những người đang đợi bên dưới. Tiếng cười rộ lên lẫn với tiếng chửi thề, rồi mọi người lại đứng dậy, chân tay lại bình thường. Một người không đứng lên, nằm vắt qua cầu thang một cách kỳ quái, chân cao hơn đầu, thét giọng khàn khàn gần như không nghe nổi, như thể trong một cơn mơ hoảng loạn. Ai đó giơ bật lửa trên mặt gã và họ thấy hàm răng nhe nhởn cùng hai bên mép sùi bọt trắng. Anh ta bị gãy lưng rồi, có người nói, nhưng chẳng ai làm được gì, và giờ người ta đang ôm chăn gối bước qua gã, còn những người khác chen lấn đi lên.Họ ra khỏi khách sạn và lại đi vào sâu trong đất liền, lại chỗ bà già và con lợn. Nguồn cung cấp điện cho Dunkirk hẳn đã bị cắt, nhưng quanh mép những cửa sổ phủ rèm che kín họ vẫn thấy lấp lóe ánh nến và đèn dầu vàng vọt. Phía bên kia đường binh lính đang gõ cửa các nhà, nhưng giờ không ai mở nửa. Đây là giây phút Turner chọn để miêu tả cho Nettle nơi thích hợp để ăn tối mà lúc trước anh nghĩ đến. Anh tô vẽ thêm để làm rõ điều cần nói, thêm vào cửa sổ Pháp mở ra ban công có lan can thép uốn với những dây đậu tía cổ luồn qua, rồi thì máy hát và bàn tròn phủ khăn viền xanh lá cây, và một tấm thảm Ba Tư trải trên ghế dài. Càng miêu tả, anh càng chắc mẩm là căn phòng ở ngay gần đó. Những lời của anh đang đưa nó vào sự sống.Nettle, răng cửa bập lên môi dưới lộ vẻ bối rối hiền lành của loài gặm nhấm, để anh nói nốt rồi bảo, "Tôi biết, Tôi biết chết mẹ đi chứ."Họ đứng bên ngoài một ngôi nhà bị ném bom, hầm chứa gần như mở toang lên trời và trông như một cái động khổng lồ. Túm lấy áo khoác anh, Nettle kéo anh xuống một cái khe toàn gạch vụn. Thận trọng, gã dẫn anh qua sàn hầm vào bóng tối. Turner biết đây không phải là nơi kia, nhưng anh không thể cưỡng lại sự cương quyết bất thường của Nettle.Phía trước, một đốm sáng xuất hiện, rồi một đốm nữa, và đốm thứ ba. Thuốc lá của mấy tay đàn ông đã nương náu ở đó từ trước.Một giọng cất lên, "Này. Đi chỗ khác đi. Bọn tôi đủ người rồi."Nettle quẹt một que diêm giơ lên. Khắp bốn bức tường toàn là người, họ ngồi dựa, hầu hết đã ngủ. Vài người nằm ở giữa sàn, nhưng vẫn còn chỗ, và khi que diêm tắt, anh đè vai Turner bắt ngồi xuống. Khi phủi cho sạch những vụn gạch vỡ dưới mông, Turner thấy áo mình ướt đầm. Hẳn là máu, hoặc chất lỏng nào khác, nhưng lúc này thì không đau. Nettle sắp áo choàng quanh vai Turner. Giờ sức nặng đã được cất khỏi chân, một cảm giác đê mê nhẹ nhõm lan lên qua đầu gối và anh biết đêm đó mình sẽ không đi đâu nữa, dù Nettle có thất vọng chừng nào. Cái cảm giác đung đưa do cả ngày đi lại chuyển xuống sàn. Turner thấy sàn nhà bên dưới mình nghiêng đi và dịch chuyển dữ dội khi anh ngồi đó trong bóng tối hoàn toàn.Giờ thì vấn đề là ăn mà không phải san sẻ. Muốn sống sót thì phải ích kỷ. Nhưng hiện tại thì anh không làm gì và đầu anh trống rỗng. Sau một lát Nettle thúc anh tinh và luồn chai rượu vào tay anh. Anh cho được miệng lên miệng chai, nghiêng rồi uống. Có người nghe tiếng anh nuôt."Anh có gì đây?""Sữa cừu," Nettle nói. "Vẫn còn ấm đấy. Làm ít đi."Có tiếng khạc nhổ, và thứ gì đó âm ấm nhơm nhóp rơi vào mu bàn tay Turner. "Đồ bẩn thỉu."Một giọng nói khác, dọa nạt hơn, cất lên, "Im mồm đi. Tôi đang cố ngủ đây."Cử động không phát ra tiếng, Nettle mò mẫm trong túi dết tìm xúc xích, cắt làm ba và đưa một miếng cho Turner cùng một khoanh bánh mì. Anh nằm duỗi ra trên sàn xi măng, kéo áo choàng trùm kín đầu để ngăn mùi thịt cũng như tiếng nhai, và trong mùi hôi rình của chính hơi thở mình, cùng với những mẩu gạch và mạt đá chọc vào cổ, bắt đầu ăn bữa ăn ngon nhất đời mình. Có mùi xà phòng thơm trên mặt anh. Anh ăn miếng bánh mì có vị vải lều của lính, rồi xé và mút xúc xích. Khi thức ăn xuống đến bụng anh, một cơn nóng lan ra chạy khắp ngực và cổ họng. Anh đã đi trên khắp các con đường ấy suốt cả đời mình, anh nghĩ. Khi nhắm mắt lại anh thấy mặt đường nhựa chuyển động và đôi bốt của chính mình chập chờn thoắt ẩn thoắt hiện. Ngay cả khi nhai, anh cảm thấy mình rơi thụt vào một giấc ngủ vài giây liên tục. Anh bước sang một khoảng thời gian khác, và giờ, nằm gọn gàng dễ chịu trên lưỡi anh là một quả hạnh bọc đường, vị ngọt của nó thuộc về một thế giới khác. Anh nghe tiếng những người khác phàn nàn hầm lạnh quá và anh mừng vì có áo choàng quanh mình, và cảm thấy một niềm tự hào cha chú khi mình đã ngăn hai tay hạ sĩ vứt áo đi.Một nhóm lính vào tìm chỗ trú và quẹt diêm, như anh và Nettle lúc nãy. Anh cảm thấy không thiện cảm với họ và khó chịu với cái giọng West Country. Như mọi kẻ khác trong hầm, anh muốn họ biến đi. Nhưng họ tìm được chỗ đâu đó ngay cách chân anh một chút. Anh ngửi được mùi brandy và càng không ưa họ. Họ sắp xếp chỗ ngủ ầm ĩ cả lên, và khi một giọng nói từ chỗ tường cất lên, "Bọn nhà quê chết dịch," một trong những kẻ mới đến lảo đảo đi về phía đó và trong khoảnh khắc tưởng như sẽ có đánh nhau to. Nhưng bóng tối và những lời phản đối mệt mỏi của mọi người ở đó đã giữ được an bình.Chẳng mấy chốc chỉ còn tiếng thở và ngáy đều đặn. Dưới người anh sàn nhà dường như vẫn nghiêng, rồi đổi sang nhịp bước đều, và một lần nữa Turner thấy mình quá ưu phiền vì những ấn tượng, quá bồn chồn, quá mệt mỏi không ngủ nổi. Qua lần vải áo choàng anh sờ tìm chồng thư. Em sẽ đợi anh. Trở về với em. Những lời đó không phải là vô nghĩa, nhưng giờ chúng không làm anh cảm động. Thế là đủ rõ - một người chờ một người khác thì cũng như là một phép cộng số học, cũng trống rỗng không chút cảm xúc như thế. Đợi. Đơn giản là một người chả làm gì cả, qua thời gian, trong khi người kia tiến tới. Đợi là một từ nặng nề. Anh cảm thấy nó ép xuống, nặng như cái áo choàng. Ai trong hầm này cũng đang đợi, ai trên bãi biển cũng đang đợi. Nàng đang đợi, phải, nhưng rồi sao? Anh cố để giọng nàng nói lên những từ đó, nhưng chỉ nghe thấy mỗi giọng mình, ngay bên dưới tiếng tim đập nặng nề. Thậm chí anh còn không hình dung ra được mặt nàng. Anh buộc mình nghĩ đến tình huống mới, tình huống sẽ làm cho anh hạnh phúc. Với anh những gì phức tạp đã mất đi rồi, sự khẩn thiết đã tiêu tan. Briony sẽ đổi bằng chứng, nó sẽ viết lại quá khứ để có tội trở thành vô tội. Nhưng trong những ngày này tội lỗi là gì cơ chứ? Rẻ tiền. Ai cũng có tội cả, chẳng ai không. Không ai được hoàn nguyên nhờ một sự thay đổi bằng chứng, vì không có đủ người, không đủ giấy và bút, không đủ kiên nhẫn và hòa bình, để ghi lại tất cả lời khai của các nhân chứng và tổng họp sự kiện. Các nhân chứng cũng có tội. Chúng ta chứng kiến tội ác của nhau suốt ngày. Hôm nay ta không giết ai ư? Nhưng ta đã để mặc bao nhiêu người chết rồi? Trong hầm ở dưới này chúng ta sẽ giữ im lặng không nói về chuyện đó. Chúng tôi sẽ ngủ mà quên đi, Briony ạ. Quả hạnh bọc đường của anh có vị của tên con bé, một vị có vẻ phi thực kỳ quặc đến nỗi anh tự hỏi mình nhớ có đúng không. Cả tên của Cecilia. Phải chăng anh vẫn luôn coi sự lạ lùng của những cái tên này là hiển nhiên? Ngay cả câu hỏi này cũng khó mà giữ được lâu.Ở đất Pháp này anh còn nhiều việc chưa làm xong đến nỗi với anh dường như là dễ hiểu khi trì hoãn chuyến khởi hành trở về Anh, mặc dù hành trang anh đã xếp, những hành trang kỳ lạ, nặng nề. Không ai có thể nhìn thấy chúng nếu anh bỏ lại đây và quay lại. Những hành trang vô hình. Anh phải quay lại đưa thằng bé trên cây xuống. Trước đây anh đã làm thế rồi. Anh đã quay lại nơi không ai có ở đó và tìm thấy hai thằng nhỏ dưới cây rồi công kênh Pierrot trên vai còn Jackson thì dắt tay, qua công viên. Mới nặng làm sao! Hồi ấy anh đang yêu, yêu Cecilia, yêu hai đứa sinh đôi, yêu sự thành đạt, yêu buổi rạng đông và màn sương lấp lánh gợi trí tò mò của nó. Và một buổi tiệc đón mừng mới hoành tráng làm sao! Giờ anh đã quen với những thứ như thế này, một nơi bình thường bên vệ đường, nhưng hồi đó, trước khi anh trở nên thô thiển và hoàn toàn chai lì thế này, khi nó còn là một thứ mới lạ và khi mọi thứ mới toanh, anh cảm thấy nó rõ ràng. Anh để tâm khi nàng chạy vụt qua bãi sỏi và nói với anh qua cửa xe cảnh sát để mở. Ôi, khi anh yêu em, Thì anh trong sạch và can đảm. Vì thế anh sẽ quay lại theo lối anh đã đến, đi ngược lại tất cả những gì họ đã đi qua, qua những đầm lầy khô cạn và thê lương, qua tay trung sĩ hách dịch trên cầu, qua ngôi làng bị đánh bom, và theo con đường hẹp ngoằn ngoèo hàng dặm qua những vùng đất nông trại gợn sóng nhấp nhô, tìm con đường mòn bên trái nơi rìa làng, đối diện tiệm giày, và tiếp hai dặm nữa, đi qua hàng rào thép gai, qua khu rừng và cánh đồng tới nơi ngủ qua đêm ở trang trại của mấy anh em kia, và ngày tiếp theo, trong ánh nắng buổi sáng vàng tươi, dựa trên cái kim la bàn xoay xoay, rảo chân qua vùng quê rực rỡ với những thung lũng nhỏ suối nước và bầy ong, rồi đi theo con đường hẹp dốc ngược lên căn nhà buồn thảm cạnh đường ray. Và cái cây. Lượm lặt từ bùn những mảnh quần áo te tua cháy xém, những mẩu pyjama của thằng bé, rồi bế nó xuống, thằng bé xanh lét tội nghiệp, và chôn cất tử tế. Một thằng nhỏ điển trai. Hãy để người có tội chôn người vô tội và để không ai thay đổi bằng chứng. Thế Mace ở đâu để giúp đào hố đây? Con gấu dũng cảm, tay Hạ sĩ Mace đó. Ở đây còn nhiều việc chưa làm xong và thêm một lý do nữa vì sao anh không thể bỏ đi. Anh phải tìm Mace. Nhưng trước tiên anh lại phải đi hàng dặm, và quay lại hướng Bắc tới cánh đồng nơi tay nông dân và con chó của hắn vẫn đi sau cái cày, và hỏi cái cô người xứ Flander kia cùng con trai cô xem họ có buộc anh chịu trách nhiệm cho cái chết của họ không. Bởi đôi khi một người có thể tự nhận vào mình quá nhiều, trong những cơn tự trách bản thân đầy giả dối. Cô ấy có thể nói không - người xứ Flander thích nói không. Anh đã cố giúp mẹ con tôi. Anh đâu thể nào mang chúng tôi qua cánh đồng chứ. Anh đã mang hai đứa sinh đôi, chứ không phải chúng tôi, không. Không, anh không có tội. Không.Có tiếng thì thầm, và anh thấy hơi thở trên khuôn mặt nóng bừng của mình. "Ồn ào quá đấy, Cha nội."Sau đầu Hạ sĩ Nettle là một dải trời xanh thẳm và, khắc lên nó là đường rìa màu đen nham nhở của trần hầm đổ nát."Ồn ào? Tôi có làm gì đâu?""Hét 'không' và đánh thức mọi người dậy. Có mấy gã hơi cáu rồi đấy."Anh có nhấc đầu lên và nhận thấy mình không nhấc nổi. Hạ sĩ quẹt một que diêm."Chúa ơi. Trông ông tệ khủng khiếp. Nào. uống đi." Gã nâng đầu Turner dậy và ghé bi đông vào môi anh.Nước có vị kim loại. Khi uống xong, một nỗi kiệt lực giống như cơn sóng dài, lừng lững cồn lên nhấn anh chìm xuống. Anh bước qua vùng đất cho đến khi rơi xuống biển. Để không làm Nettle kinh động, anh cố tỏ ra lý trí hơn mình đang thực sự cảm thấy."Nghe này, tôi quyết định sẽ lưu lại. Còn vài chuyện cần lo."Bằng một bàn tay bẩn, Nettle đang lau trán Turner. Anh không hiểu tại sao Nettle nghĩ là cần thiết phải cúi mặt gã, cái mặt như mặt chuột đầy lo lắng ấy, xuống sát mặt anh.Tay hạ sĩ nói, "Cha nội này, ông nghe tôi nói không? Õng có đang nghe không? Một giờ trước tôi ra ngoài đi tè. Đoán xem tôi thấy gì. Có lính hải quân đi trên đường mà gọi các sĩ quan. Họ đang tập trung trên bãi biển. Tàu đã quay lại. Chúng ta sắp về nhà, bạn ạ. Có một tay đại úy từ Trung đoàn Hoàng gia Đông Kent đến đây sẽ đưa chúng ta hành quân xuống đó lúc bảy giờ. Vì thế cố ngủ đi và đừng có mà la hét ầm ĩ nữa."Giờ anh đang rơi và giấc ngủ là tất cả những gì anh muốn, ngủ một nghìn giờ. Như thế dễ dàng hơn. Nước thì vô giá trị, nhưng nó có ích, tin vừa rồi và những lời thì thầm an ủy của Nettle cũng vậy. Họ sẽ tập trung trên con đường ngoài kia và hành quân về phía bãi biển. Lấy bên phải làm chuẩn, xếp thẳng hàng. Trật tự sẽ ngự trị. Không ai ở Cambridge dạy cho biết những lợi ích khi hành quân thành hàng lối trật tự. Họ tôn sùng tinh thần tự do, bất kham. Những thi sĩ. Nhưng thi sĩ thì biết gì về chuyện sống sót chứ? Về chuyện sống sót với tư cách một tập hợp con người. Không phá hàng lối, không lao về phía tàu, không có chuyện kẻ đến trước được phục vụ trước, không khôn sống mong chết. Không tiếng bốt khi bước qua bãi cát đến mép nước. Trong cơn sóng vỗ tói, những cánh tay sẵn lòng giơ ra giữ vững mạn tàu cho đồng đội trèo lên. Nhưng biển cả lặng sóng, và giờ chính anh bình thản, dĩ nhiên anh thấy việc nàng đợi anh mới thực sự tốt đẹp biết bao. Số học chết tiệt. Em sẽ đợi anh là cơ bản. Đó là lý do anh đã sống sót. Đó là cách thông thường để nói rằng nàng sẽ từ chối mọi kẻ khác. Chỉ mình anh. Trở lại với em. Anh nhớ cảm giác những viên sỏi dưới đế giày mỏng, giờ anh có thể cảm thấy nó, và cái lạnh cóng của còng số tám trên cổ tay mình. Anh và viên thanh tra dừng lại cạnh xe mà quay lại khi nghe tiếng chân nàng. Làm sao anh quên được bộ váy màu lá cây ấy, cái cách nó ôm lấy đường cong của hông nàng, làm nàng vướng víu khi chạy và lộ ra bờ vai tuyệt đẹp của nàng. Trắng hơn màn sương mù sáng ấy. Anh không ngạc nhiên khi viên cảnh sát cho họ nói chuyện. Thậm chí anh còn không nghĩ đến điều đó. Anh và Cecilia cư xử như thể chỉ có mình họ. Nàng không cho phép mình khóc khi nàng bảo với anh rằng nàng tin anh, nàng cậy anh, nàng yêu anh. Anh đơn giản nói với nàng rằng anh sẽ không quên điều đó, bằng câu ấy anh muốn nói với nàng anh biết ơn nàng đến mức nào, đặc biệt là khi đó, đặc biệt là bây giờ. Rồi nàng đặt một ngón tay lên cái còng và nói nàng không hổ thẹn, không có gì phải hổ thẹn cả. Nàng cầm một bên ve áo anh khẽ giật giật và đây chính là lúc nàng nói, "Em sẽ đợi anh. Trở lại với em." Nàng thực lòng. Thời gian sẽ cho thấy nàng thực sự thực lòng. Sau đó họ đẩy dúi anh vào xe, và nàng vội vã nói, trước khi òa khóc vì không thể nén hơn được nữa, và nàng bảo rằng chuyện xảy ra giữa hai người là của hai người, riêng mình họ mà thôi. Nàng muốn nhắc đến thư viện ấy, dĩ nhiên, nó là của họ. Không ai có thể tước đoạt. "Đó là bí mật của chúng mình", nàng gọi lớn, ngay trước mặt tất cả, ngay trước khi cửa xe đóng sầm lại."Tôi sẽ không nói một lời," anh nói, mặc dù đầu Nettle từ lâu anh đã không còn nhìn thấy. "Đánh thức tôi trước lúc bảy giờ nhé. Tôi hứa, ông sẽ không nghe một lời nào nữa đâu."
Bạn đang đọc truyện trên: LoveTruyen.Me