Cac Thuoc Tinh Tam Ly Dien Hinh Cua Nhan Cach
Chương 5. NĂNG LỰC Mục đích của giáo dục nước ta là phát triển toàn diện nhân cách cho học sinh, trong đó năng lực là một thành phần hết sức quan trọng. Trong cấu trúc nhân cách của con người, năng lực chiếm một vai trò to lớn và có ý nghĩa đặc biệt. Sinh thời, Bác Hồ từng nói: "Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó, như ông Bụt ngồi trong chùa không giúp ích được ai". Hay cố Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đã khẳng định: Năng suất lao động là thước đo phẩm giá của mỗi con người.Nếu xu hướng nhân cách nói lên ước vọng của mỗi cá nhân, thì năng lực là điều kiện để thực hiện nó. Muốn đạt được ước vọng của mình con người phải có năng lực. Năng lực là một vấn đề phức tạp trong tâm lí học. Năng lực vừa là một vấn đề của tâm lí học đại cương và đồng thời cũng là một vấn đề của tâm lí học sư phạm. Ở góc độ tâm lí học đại cương, năng lực được xem là một thuộc tính tâm lí cá nhân. Tâm lí học sư phạm xem năng lực là nhiệm vụ cơ bản của công tác giáo dục hình thành nhân cách cho học sinh. Nghiên cứu về năng lực vừa có ý nghĩa lí luận vừa có ý nghĩa thực tiễn. Bởi vì năng lực của con người là điều kiện để cá nhân và xã hội phát triển.I - KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NĂNG LỰC à 1. Khái niệm về năng lực1.1. Năng lực là gìNăng lực là một vấn đề phức tạp, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong quan niệm về năng lực. Ngay trong tâm lí học cũng có rất nhiều định nghĩa khác nhau về năng lực. Xem xét một cách khái quát, trong tâm lí học có hai khuynh hướng khác nhau khi bàn về khái niệm năng lực.- Khuynh hướng thứ nhất, xem năng lực như là một điều kiện tâm lí của cá nhân để hoàn thành có kết quả một hoạt động nào đó.Theo N. X. Laytex và A. A. Xmiecnov: Những thuộc tính tâm lí nào của cá nhân là điều kiện để hoàn thành tốt những loại hoạt động nhất định gọi là năng lực.Theo X.L. Rubinstein: Năng lực là toàn bộ những thuộc tính tâm lí làm cho con người thích hợp với một loại hoạt động nhất định.Theo A.V. Petropxki: Năng lực là những đặc điểm tâm lí của cá nhân mà nhờ đó sự tích luỹ kĩ năng, kĩ xảo được dễ dàng và nhanh chóng...Theo Phạm Minh Hạc: Năng lực là những đặc điểm tâm lí cá nhân đáp ứng được những đòi hỏi của hoạt động nhất định nào đó và là điều kiện để thực hiện có hiệu quả hoạt động đó. - Khuynh hướng thứ hai, xem năng lực là những thuộc tính của cá nhân, bao gồm cả những thuộc tính tâm lí và cả những thuộc tính giải phẫu sinh lí.Theo A. G. Covaliov: Năng lực là tổ hợp những thuộc tính của cá nhân, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được kết quả cao.Theo K. K. Platonov: Năng lực là thuộc tính của nhân cách được xem xét trong mối quan hệ của chúng với những hoạt động xác định.Theo Trần Trọng Thuỷ: Năng lực là sự phù hợp giữa một tổ hợp những thuộc tính nào đó của cá nhân với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, được thể hiện ở sự hoàn thành tốt đẹp hoạt động ấy.Theo Bùi Văn Huệ: Năng lực là tổ hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằn đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy.Theo Phạm Tất Dong: Năng lực là tổ hợp những đặc điểm tâm lí và sinh lí của cá nhân đang là những điều kiện chủ quan để cá nhân đó thực hiện có kết quả một hoạt động.Từ những quan niệm trên đây, chúng ta có thể định nghĩa khái niệm năng lực như sau:Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động có kết quả.Thứ nhất, năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, có nghĩa là:- Năng lực không phải là một thuộc tính, một đặc điểm tâm lí, mà bao gồm nhiều thuộc tính được kết hợp với nhau, tương tác lẫn nhau, đặc trưng cho mỗi cá nhân.- Năng lực cũng không phải mọi thuộc tính của cá nhân, mà chỉ gồm những thuộc tính tương ứng với những đòi hỏi của một hoạt động nhất định nào đó, làm cho hoạt động đó đạt kết quả cao. Năng lực không phải phép cộng đơn giản mà là sự tương tác lẫn nhau giữa các thuộc tính làm thành một hệ thống, một cấu trúc nhất định.Thứ hai, năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định.Nói đến năng lực bao giờ chúng ta cũng nói đến năng lực trong một hoạt động cụ thể, không có thứ năng lực chung chung không gắn với một hoạt động nào. Ví dụ: năng lực hoạt động chính trị, năng lực hoạt động khoa học kĩ thuật, năng lực hoạt động nghệ thuật, năng lực kinh doanh, năng lực tổ chức... - Năng lực là thuộc tính độc đáo của mỗi cá nhân được thể hiện ở chỗ mỗi người khác nhau thì biểu hiện năng lực khác nhau và múc độ của năng lực cũng khác nhau. Cùng một loại năng lực nhưng ở người này khác với người kia, có thể do cấu trúc của chúng khác nhau. Chẳng hạn, cùng có khả năng làm thơ nhưng thơ của Tố Hữu khác với thơ của Chế Lan Viên. - Những thuộc tính của cá nhân bao gồm cả những đặc điểm tâm lí và đặc điểm giải phẫu sinh lí (chủ yếu là đặc điểm của hệ thần kinh). Ví dụ, thính giác tốt, cơ quan phát âm tốt là điều kiện tốt cho năng lực âm nhạc, thị giác tốt, khả năng cảm thụ màu sắc, không gian là điều kiện tốt cho phát triển năng lực hội hoạ...Tuy vậy, năng lực của con người không có sẵn, nghĩa là con người sinh ra không có sẵn một loại năng lực nào cả. Năng lực con người được hình thành, phát triển và biểu hiện trong hoạt động, trong cuộc sống. Khi chưa xem xét, quan sát hoạt động của cá nhân thì chưa thể nói cá nhân đó có hay không có năng lực đối với một loại hình hoạt động nào đó. Ví dụ, ta không thể nói năng lực âm nhạc của một em bé nếu em đó chưa học nhạc; dù là hình thức sơ đẳng nhất. Ta chỉ có thể kết luận được khi em đó được học, được thể hiện những gì mình có trong hoạt động âm nhạc.Giữa năng lực và tri thức, kĩ năng. kĩ xảo có mối quan hệ mật thiết với nhau. Năng lực của trẻ hình thành và phát triển, một mặt phụ thuộc vào tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của các em. Trong quá trình lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thì năng lực của các em cũng được phát triển. Nói một cách cụ thể, tri thức, kĩ năng, kĩ xảo là điều kiện, là cơ sở để hình thành năng lực. Mặt khác quá trình lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh phụ thuộc vào năng lực của các em. Năng lực tao điều kiện cho học sinh dễ dàng và nhanh chóng nắm được một cách sâu sắc và bền vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng. Ví dụ, những em có năng lực trong lĩnh vực toán học như khả năng ghi nhớ các kí hiệu, khả năng tưởng tượng không gian khả năng tư duy lôgic... thì sẽ tiếp thu nhanh hơn các tri thức và kĩ năng, kĩ xảo toán học. Và khi được tiếp thu nhiều tri thức, kĩ năng, kĩ xảo toán học thì năng là toán học của em càng phát triển hơn. Tuy nhiên, năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo không đồng nhất với nhau. Một người có năng lực trong một lĩnh vực nào đó tức là có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong lĩnh vực đó. Nhưng một người có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong một lĩnh vực chưa chắc đã có năng lực trong lĩnh vực đó.- Năng lực vừa là tiền đề vừa là kết quả của hoạt động. Để hình thành năng lực con người phải tích cực tham gia vào các hoạt động tương ứng.Thông qua tổ chức hoạt động, người ta có thể chủ động tạo ra năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Như vậy, năng lực là kết quả của sự phát triển nhân cách, phụ thuộc vào quá trình phát triển nhân cách. Điều đó cắt nghĩa tại sao không bao giờ có sự bình đẳng về năng lực của con người, đồng thời nó cũng cho phép bác bỏ những quan điểm định mệnh về năng lực con người.Năng lực là yếu tố hợp thành trong một hoạt động cụ thể chứ không chỉ là sự tương ứng hay sự phù hợp giữa một bên là yêu cầu của hoạt động và một bên là tổ hợp những thuộc tính tâm lí cá nhân. Điều đó nói lên năng lực mang tính cơ động mềm dẻo.1.2. Một số thuật ngữ có liên quanĐể hiểu rõ hơn khái niệm năng lực, chúng ta cần phân biệt nó với một số khái niệm có liên quan khác như năng khiếu, khả năng, tư chất, thiên hướng...* Khả năng là khái niệm trong ngôn ngữ đời thường được dùng để thay thế khái niệm năng lực (trong tiếng Anh cả hai thuật ngữ này có chung một từ là ability). Tuy nhiên, về mặt khoa học giữa hai thuật ngữ này có sự khác biệt nhau về chất.Khả năng là hệ thống phức hợp các quá trình, các thuộc tính của cá nhân, nhờ đó con người có thể giải quyết được những yêu cầu đặt ra cho mình trên con đường phát triển. Khả năng gồm có kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, thói quen, thái độ ý chí, xúc cảm, khí chất, chúng cùng kết hợp với nhau tham gia vào hoạt động, tạo ra kết quả của hoạt động. Như vậy, bình thường ai cũng có những khả năng nhất định. Người ta nói đến khả năng ban đầu như là kết quả quá trình sống của trẻ trong xã hội, nó nảy sinh không cần sự tác động của quá trình giáo dục.Năng lực phát triển trên nền khả năng và là một bậc cao hơn so với khả năng. Hiểu theo nghĩa này thì bất cứ một cá nhân bình thường nào cũng có những năng lực nhất định.Ví dụ, có hai học sinh cùng giải quyết một nhiệm vụ như nhau, hoàn thành trong khoảng thời gian như nhau, đạt được kết quả như nhau, chúng ta sẽ đánh giá hai học sinh này có khả năng như nhau. Nhưng nếu một học sinh đã được học cách để giải quyết nhiệm vụ đó còn học sinh kia thì chưa được học nhưng đã sáng tạo ra cách giải quyết công việc thì chúng ta đánh giá trường hợp thứ hai có năng lực hơn.Khả năng là cái đảm bảo xác suất thực hiện một thao tác tư duy, hoặc một hành động thực tiễn, nó không phản ánh trực tiếp mức độ phát triển một năng lực, nó phụ thuộc rất nhiều vào sự luyện tập. Năng lực cho thấy xác suất tiến bộ của một người, cho thấy tương lai của một người, cho thấy mức độ mà khả năng của người đó có thể vươn tới mà không cần có sự nỗ lực quá mức. Ví dụ, một người có năng lực học toán thì tiếp thu dễ dàng, có chất lượng và nhanh chóng các tri thức toán học mà không cần cố gắng nhiều.Về mặt nguyên tắc, bất cứ một chức năng tâm lí nào cũng có thể được xem là một năng lực nếu nhìn nhận nó từ góc độ hiệu suất trong một hoạt động nhất định.* Tư chấtTư chất là một tổ hợp bao gồm cả những đặc điểm giải phẫu và những đặc điểm chức năng tâm - sinh lí mà cá thể đạt được trong một giai đoạn phát triển nhất định dưới ảnh hưởng của môi trường sống và hoạt động của cá nhân. Nghĩa là, năng lực có tiền đề là các tổ chức cơ thể được di truyền ổn định dưới dạng tư chất (tố chất hay các yếu tố bẩm sinh di truyền của cơ thể). Đó là tất cả những tiềm năng phát triển, là điều kiện xuất phát để phát triển năng lực cá nhân. Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, mỗi con người đều có tư chất khác nhau. Tư chất là cơ sở vật chất của sự phát triển năng lực, có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ và chiều hướng phát triển năng lực, nhưng tư chất không bao hàm năng lực.Giữa tư chất và năng lực có một khoảng cách rất lớn. Tư chất là điều kiện cần nhưng chưa đủ để phát triển năng lực. Tư chất không quy định trước sự phát triển năng lực. Ví dụ, đôi tai thính không quyết định đứa trẻ có trở thành nhạc sĩ hay không... Năng lực bao giờ cũng cụ thể và xác định vì nó gắn với thành tích của hoạt động, nó không do tư chất sinh ra một cách trực tiếp mà là kết quả phát triển của nhân cách dựa trên tư chất.* Thiên hướngNhiều khi một người có thiên hướng đối với một hoạt động nào đó cũng được xem là người có năng lực về lĩnh vực đó. Thiên hướng là khuynh hướng của cá nhân đối với một hoạt động nào đó thể hiện sự yêu thích đối với hoạt động đó, nắm bắt nhanh những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết trong lĩnh vực đó và đạt được kết quả khả quan. Tuy nhiên, thiên hướng chỉ là mức độ bộc lộ đầu tiên của năng lực trong hoạt động dựa trên những tư chất nhất định. Tức là, nếu gặp điều kiện hoạt động phù hợp thì tư chất mới bộc lộ thành thiên hướng. Đó chỉ là dấu hiệu đầu tiên của năng lực chứ chưa phải năng lực. Thậm chí còn có thiên hướng giả tạo thì càng không phải là biểu hiện của năng lực.* Năng khiếuNgày nay khái niệm về năng khiếu và mối quan hệ giữa năng lực và năng khiếu chưa được hiểu nhất quán. Có người cho rằng năng khiếu là một mức độ biểu hiện của năng lực và cao hơn so với thiên hướng. Song cũng có ý kiến cho rằng năng khiếu chưa phải là khả năng hay một bậc nào đó của năng lực. Bởi vì, nếu năng khiếu không được tổ chức hoạt động trong những điều kiện thuận lợi thì năng khiếu cũng bị thui chột. (Vấn đề này chúng ta sẽ bàn kĩ hơn ở phần sau).2. Các mức độ của năng lựcSự phù hợp giữa những thuộc tính của cá nhân với những yêu cầu hoạt động có những mức độ khác nhau, vì thế tạo ra kết quả hoạt động khác nhau. Nói cách khác, năng lực của người này khác với năng lực của người kia, hay năng lực con người có nhiều mức độ cao thấp khác nhau.Dựa vào tốc độ tiến hành và chất lượng của sản phẩm hoạt động, người ta chia năng lực làm ba mức độ cao thấp khác nhau là năng lực, tài năng và thiên tài.a. Năng lực là danh từ chung nhất, đồng thời cũng dùng để chỉ một mức độ nhất định của năng lực, biểu thị sự hoàn thành với hiệu quả cao một hoạt động nào đó. Mức độ này trong một hoạt động có nhiều người có thể đạt được. Trong một hoạt động, tất cả những người đạt được kết quả nhất định ở mức hoàn thành nhiệm vụ, đều được gọi là người có năng lực.b. Tài năng, là một cấp độ cao của năng lực, dùng để chỉ một người đã tiến hành một hoạt động phức tạp và đã đạt được kết quả xuất sắc ít người sánh kịp. Người tài năng trong lĩnh vực nào sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong lĩnh vực đó. Theo Nguyễn Huy Tú thì tài năng là một tổ hợp các điều kiện bên trong và bên ngoài thuận lợi tạo ra khả năng đạt thành tích hoạt động rất cao, tuy những thành tích này về cơ bản vẫn thuộc khuôn khổ những điều kiện đã đạt được của xã hội loài người ở thời điểm đó.Tiêu chí quan trọng có tính mấu chết của tài năng là mức độ rất cao của thành tích hoạt động. Đặc điểm của tài năng là sự sáng tạo cao khi thực hiện một hoạt động nào đó. Sản phẩm của những người có tài năng làm ra thường mang tính độc đáo và mới mẻ, có sự hoàn chỉnh cao và thường có giá trị to lớn đối với cuộc sống con người. Người có tài năng là người có sự phát minh, sáng chế, có nhiều sáng kiến trong một lĩnh vực nhất định. Xét đến cùng, người đạt tới mức tài năng chính là sự kết hợp nhiều năng lực để thực hiện có kết quả cao nhiều hoạt động phức tạp chứ không phải từng khả năng riêng lẻ. Ví dụ, năng lực nghe thính, tinh tế không đủ để trở thành một nhạc sĩ, một khả năng chắp vần không đủ để trở thành một nhà thơ...Chỉ có một tổ hợp nhiều năng lực đạt tới một trình độ phát triển cao mới cho phép một người trở thành tài năng trong một lĩnh vực nào đó.Tuy nhiên, một tổ hợp các năng lực cũng chưa đủ để trở thành một tài năng mà còn cần phải có sự lao động vất vả, căng thẳng, kiên trì. Người có tài năng có những khác biệt với người bình thường ở tính độc đáo trong công việc, khả năng làm việc phi thường và ý chí sắt đá nhằm đạt tới mục đích cuối cùng với chất lượng cao.c. Thiên tài là mức độ cao nhất của năng lực, là khả năng thực hiện có kết quả đặc biệt xuất sắc trong một lĩnh vực hoạt động trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Sự sáng tạo của những thiên tài khác với người tài năng ở chỗ, sản phẩm của họ có ý nghĩa tích cực đối với một thời kì lịch sử, một xã hội, một thời đại, tạo ra một bước ngoặt phát triển mới trong một lĩnh vực của đời sống xã hội. Ví dụ, thiên tài Hồ Chí Minh đã tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển xã hội Việt Nam trong thế kỉ XX, thiên tài Anhstanh tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển của nền vật lí hiện đại...Theo Nguyễn Huy Tú thì thiên tài là khái niệm chỉ mức độ cực cao của năng lực, cho phép con người đạt được những thành tựu vô song trong lịch sử. Khác với tài năng, thiên tài dẫn đến những giá trị mở hoàn toàn trên bình diện toàn nhân loại, mở ra một thời kì mới của sự phát triển trong một hoặc nhiều lĩnh vực hoạt động nào đó của loài người, tựa như một mốc son đánh dấu một bậc phát triển mới cao hơn của xã hội loài người.Ngày nay, nguồn gốc của thiên tài vẫn là một bí ẩn của khoa học. Tuy vậy người ta vẫn thống kê ra được một số biểu hiện và nguồn gốc của thiên tài như sau:- Thiên tài di truyền là loại thiên tài do được di truyền từ các thế hệ trước. Các nhà thiên tài học đã dẫn chứng các trường hợp thiên tài di truyền như Mozart, Bach, Mendelsson... Đó là những thiên tài âm nhạc được xuất thân từ những gia đình dòng dõi có truyền thống âm nhạc.- Thiên tài điên rồ là dạng thiên tài luôn gắn với những biển hiện điên rồ, loạn trí nào đó. Ví dụ như hoạ sĩ Van Gogh, nhà văn Dostoievxki...- Thiên tài bệnh lí là loại thiên tài gắn với các biểu hiện bệnh lí nào đó (quan niệm này cho rằng do tác động của bệnh tật đã thúc đẩy thành thiên tài). Ví dụ thiên tài do bệnh Gout được giải thích là do trong máu của những người này lượng axid ước cao gấp 20 đến 30 lần so với người bình thường đã tác động mạnh mẽ vào hoạt động của hệ thần kinh và các hoạt động sinh lí khác tạo ra nguồn gốc của thiên tài. Điển hình của thiên tài liên quan đến bệnh Gout như Newton, Darwin, Galilee, Bethoven... - Thiên tài gắn với hội chứng Marfan (là hội chứng của những người có nhiều adrenalin trong máu). Do có nhiều adrenalin trong máu đã kích thích hoạt động trí óc và thể lực của người bệnh làm cho họ trở thành thiên tài. Những thiên tài gắn với hội chứng này như A. Lincoln, H. Andersen...Một số nhà thiên tài học hiện nay lại chia thiên tài thành hai dạng cơ bản là thiên tài may mắn và thiên tài tự rèn đúc. Thiên tài may mắn là những người sống trong các điều kiện thuận lợi tối ưu giúp cho họ trở thành thiên tài mà không gặp một khó khăn trở ngại nào. Ngược lại, thiên tài do rèn đúc là kết quả của quá trình lao động vất vả, không mệt mỏi... 3. Phân loại năng lựcCó nhiều cách phân loại năng lực tuỳ thuộc vào những tiêu chí khác nhau.a. Nếu dựa vào nguồn gốc phát sinh thì có năng lực tự nhiên và năng lực xã hội.- Năng lực tự nhiên là năng lực có nguồn gốc sinh vật, nó có quan hệ trực tiếp với tư chất của cá nhân. Ví dụ, năng lực hình thành phản xạ có điều kiện, năng lực thích ứng nhanh... Loại này có cả ở người và động vật. Năng lực tự nhiên được nảy sinh trên cơ sở những tư chất bẩm sinh, di truyền không cần đến tác động của giáo dục đào tạo. Tuy vậy, cuộc sống luôn luôn vận động và phát triển không ngừng đòi hỏi con người phải có các năng lực mới bằng con đường giáo dục và đào tạo. Những năng lực được đào tạo này được hình thành trên nền tảng năng lực tự nhiên nhưng là một bậc phát triển cao hơn so với năng lực tự nhiên.- Năng lực xã hội là năng lực hình thành và phát triển trong quá trình sống và hoạt động trong xã hội của mỗi cá nhân (năng lực tự tạo). Loại năng lực này chỉ có ở con người như năng lực ngôn ngữ, năng lực lao động... Năng lực tự tạo là những phẩm chất của quá trình hoạt động tâm lí tương đối ổn định và khái quát của con người, nhờ nó mà chúng ta có thể giải quyết được những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực tự tạo chỉ nảy sinh trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người gắn liền với sự sáng tạo của con người. Khi đã được hình thành và ổn định, các năng lực tự tạo thường đi vào hệ thống các năng lực tự nhiên. Còn các năng lực tự nhiên lại báo trước trong chừng mực nào đó về năng lực tự tạo của con người khi họ phải giải quyết những yêu cầu thuộc loại mới. Năng lực tự nhiên và năng lực tự tạo bộc lộ ở tính nhanh, tính dễ dàng, chất lượng tiếp nhận và thực hiện hoạt động, ở bề rộng của sự đi chuyển, tính mới mẻ, tính độc đáo của hoạt động giải quyết những yêu cầu mới.b. Một cách phân lại có ý nghĩa hơn trong công tác giáo dục là phân loại theo mức độ chuyên biệt của năng lực. Cách phân loại này chia năng lực làm hai loại là năng lực chung và năng lực riêng.Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau như năng lực quan sát, năng lực học tập, năng lực tư duy, năng lực ngôn ngữ... Năng lực chung là năng lực nắm và vận dụng tri thức cơ bản của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội làm cơ sở cho mọi hoạt động trong xã hội. Năng lực chung có hai mức đội năng lực chung sơ đẳng và năng lực chung phức tạp.+ Năng lực chung sơ đẳng vốn có ở tất cả mọi người, tuy nhiên ở mỗi người khác nhau thì khác nhau. Ví dụ, năng lực cảm giác, tri giác, ghi nhớ...+ Năng lực chung phức tạp cũng có ở mọi người nhưng ở các mức độ khác nhau, là năng lực ứng với hoạt động chung của con người như vui chơi, học tập, lao động, giao tiếp... Mỗi một năng lực nằm trong nhóm này đều là một cấu trúc phức tạp của thuộc tính nhân cách. Khác với năng lực sơ đẳng nói trên người ta thường nói đến số ít hoặc đơn lẻ của các khả năng như ý chí với tư cách là một năng lực để đạt được mục tiêu còn năng lực chung phức tạp là một phức hợp nhiều năng lực như năng lực học tập, năng lực lao động...- Năng lực riêng (hay năng lực chuyên môn) là năng lực đặc trưng riêng trong những lĩnh vực hoạt động nhất định. Ví dụ, năng lực hội hoạ, năng lực âm nhạc, năng lực sư phạm... Người ta cũng chia năng lực riêng thành năng lực riêng sơ đẳng và năng lực riêng phức tạp.+ Năng lực riêng sơ đẳng là loại năng lực không có ở tất cả mọi người và ở mỗi người khác nhau thì khác nhau. Đây là những thuộc tính phức tạp của nhân cách. Ví dụ, khả năng ước lượng bằng mắt, óc phê phán, trí nhớ ý nghĩa... Những thuộc tính phức tạp như vậy của cá nhân biểu hiện ra trong những hoạt động đặc trưng tương ứng.+ Năng lực riêng phức tạp được phát triển trong lịch sử loài người, thoạt đầu là năng lực về các nghề thủ công, sau đó là các nghề nghiệp cụ thể. Xã hội càng phát triển thì năng lực riêng phức tạp càng nhiều. Ngày nay, có những nghề như lái máy bay, điều khiển tàu vũ trụ, kĩ sư lập trình... đều thuộc vào năng lực riêng phức tạp.Tuy vậy, cách phân loại nói trên cũng chỉ mang tính tương đối nó chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu. Trong thực tế giữa hai loại năng lực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau. Năng lực riêng chính là năng lực chung được phát triển theo một hướng chuyên biệt nào đó. Năng lực chung là cơ sở của năng lực riêng, cho nên việc bồi dưỡng năng lực riêng không thể tách rời việc bồi dưỡng năng lực chung. Trong thực tế cuộc sống, mỗi hoạt động đều đề ra những yêu cầu nhất định về năng lực chung lẫn năng lực chuyên môn. Để phát triển năng lực chuyên môn không nên bó hẹp việc bồi dưỡng, phát triển năng lực trong một ngành cụ thể nào đó. Chỉ có thể phát triển toàn diện, hoàn chỉnh và thống nhất cả hai loại năng lực mới đảm bảo cho cá nhân hoàn thành nhiệm vụ trong một loại hình hoạt động.c. Phân loại năng lực dựa vào các mức độ phát triển của nó. Theo cách phân loại này thì năng. lực được phân thành các loại sau: năng lực học tập, nghiên cứu; năng lực sáng tạo. - Năng lực học tập, nghiên cứu là năng lực liên quan đến việc lĩnh hội phương thức hoạt động có sẵn trong nền văn hoá nhân loại, việc lĩnh hội tri thức kĩ năng kĩ xảo. Ví dụ, khả năng tập trung chú ý, năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh...- Năng lực sáng tạo là năng lực có liên quan đến việc tạo ra cái mới chưa hề có trong nền văn hoá nhân loại, hoặc phát hiện ra phương pháp mới của việc thực hiện một hoạt động nào đó. Tuy vậy, trong cùng một lĩnh vực hoạt động, ở người này thì hình thành năng lực học tập nghiên cứu còn ở người khác lại hình thành năng lực sáng tạo. Ví dụ, trong lĩnh vực nghệ thuật có người là nhà phê bình, hiểu rất sâu sắc tri thức về lĩnh vực của mình nhưng không bao giờ sáng tạo nghệ thuật, nhưng có người chuyên sáng tạo nghệ thuật lại không hiểu sâu sắc lắm các tri thức có liên quan. Trong các lĩnh vực khác cũng vậy. Việc phân chia thành hai loại năng lực này cũng chỉ mang tính tương đối. Vì hai loại năng lực này có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Năng lực học tập nghiên cứu hỗ trợ cho năng lực sáng tạo. Ngược lại, năng lực sáng tạo góp phần cho năng lực học tập, nghiên cứu được sâu sắc hơn. Trong thực tế, có một số nhà lí luận đã có những sáng tác hay và ngược lại có những nhà sáng tác đã có những công trình nghiên cứu lí luận có giá trị.Năng lực của học sinh ở một lĩnh vực nhất định được xem xét và đánh giá thông qua các hoạt động ở lĩnh vực đó. Trong thực tế, người ta có thể xem xét và đánh giá năng lực của học sinh thông qua tổng kết những tiêu chí đã được đề xuất trong tâm lí học, đó là: Tốc độ tiến bộ của học sinh trong việc lĩnh hội tri thức và phương thức hoạt động tương ứng; chất lượng của hoạt động; xu hướng, sự kiên trì và sức lực của học sinh dành cho công việc nào đó.Muốn cho học sinh có năng lực về một môn học, một lĩnh vực nào đó cần tạo điều kiện thuận lợi cho các em hoạt động, học tập. Ngày nay, người ta đã chứng minh được rằng: những trẻ em bình thường đều có thể có năng lực học tập để có học vấn phổ thông và trên cơ sở đó để hình thành những năng lực khác. Ngay đối với những đứa trẻ tật nguyền, nếu được tổ chức cho học tập chuyên biệt, thích hợp thì các em cũng có được những năng lực nhất định để tham gia vào cuộc sống cộng đồng.Ngoài ra, còn có cách phân loại dựa trên các lĩnh vực hoạt động cụ thể của con người như năng lực hoạt động trí tuệ, năng lực hoạt động ngôn ngữ, năng lực hoạt động nghệ thuật, năng lực hoạt động xã hội...4. Mối quan hệ giữa năng lực với các đặc điểm tâm lí và các thuộc tính tâm lí củanhân cáchNăng lực không phải là những thuộc tính tâm lí rời rạc, cô lập mà thống nhất hữu cơ với các thuộc tính khác trong hệ thống cấu trúc tâm lí cá nhân. Chính sự thống nhất đó đã tạo cho cá nhân có sức mạnh to lớn để đáp ứng yêu cầu của hoạt động cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Mối quan hệ giữa các thuộc tính của nhân cách và các đặc điểm, các thuộc tính khác trong hệ thống cấu trúc tâm lí cá nhân, thực chất là mối quan hệ giữa phẩm chất đạo đức và năng lực trong một con người. Trong mối quan hệ đó, những thuộc tính đạo đức giữ vai trò chu đạo và chi phối sự phát triển các thuộc tính năng lực, và những thuộc tính năng lực cũng ảnh hưởng, tác động tích cực đến sự phát triển của các thuộc tính đạo đức. Bất cứ cá nhân nào cũng phải có đủ phẩm chất và năng lực thì mới đảm bảo hoạt động có kết quả cao. Đúng như Hồ Chủ tịch đã dạy: có tài phải có đức. Có tài, không có đức tham ô, hủ hoá có hại cho nước cho dân. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa không giúp ích được ai.a. Năng lực với xu hướngNăng lực như là phương tiện để thực hiện mục tiêu của xu hướng. Quá trình thực hiện mục tiêu của xu hướng chính là quá trình hình thành và phát triển năng lực. Trình độ phát triển năng lực quyết định quá trình hiện thực hoá nguyện vọng của cá nhân. Xu hướng và năng lực của một cá nhân quyện vào nhau và cùng phát triển trong mối quan hệ không thể chia cắt của một nhân cách thống nhất.Ngược lại, xu hướng hoạt động của cá nhân cũng ảnh hưởng đến năng lực của cá nhân đó. Người có xu hướng về mặt hoạt động nào thường có năng lực về lĩnh vực hoạt động ấy. Một người say sưa, tập trung mọi sức lực vào hoạt động nào thường có năng lực về hoạt động ấy (Tuy nhiên cũng có một số trường hợp hai mặt xu hướng và năng lực không phù hợp với nhau. Đó là những trường hợp xu hướng chưa thực sự, xu hướng giả tạo hay tưởng tượng. Đó là hậu quả của ám thị hay tự ám thị. Người có xu hướng này có thái độ hời hợt, thụ động, vì vậy kết quả đạt được chỉ ở mức trung bình).Nói chung, giữa xu hướng và năng lực về một hoạt động nào đó thường có sự phù hợp với nhau. Sức hấp dẫn của một hoạt động nào đó đối với cá nhân càng lớn bao nhiêu thì cá nhân càng hướng sức lực của mình tham gia vào hoạt động ấy. Đó là điều kiện thuận lợi để năng lực phát triển. Những tài năng thường biểu hiện xu hướng hoạt động rất sớm (ví dụ Mozart, Raphaen, Picatxô, Newton...).Mozart, 2 tuổi đã xúc động trước các bản nhạc vui hay buồn, 4 tuổi đã nghe và chép lại một bản nhạc đồng ca trong nhà thờ không một sai sót, 6 tuổi sáng tác nhạc, 9 tuổi biểu diễn nhạc trước công chúng, 12 tuổi sáng tác giao hưởng, 14 tuổi được bầu vào viện hàn lâm Bolonhơ...Lịch sử phát triển của khoa học cho thấy rằng, sự say mê, hứng thú đối với công việc là điều kiện của sự thể hiện năng lực và hình thành tài năng.Hứng thú đối với hoạt động cũng là một yếu tố thúc đẩy năng lực. Tuy nhiên có hứng thú chưa chắc đã có năng lực. Vì có trường hợp, hứng thú không có điều kiện để thoả mãn. Nhưng có năng lực trong một lĩnh vực, sớm muộn sẽ có hứng thú tương ứng.Nhu cầu đối với một hoạt động nào đó được con người ý thức sẽ góp phần hình thành năng lực.Năng lực cũng có tác động trở lại với xu hướng. Nó củng cố niềm tin, lí tưởng cho cá nhân. Nếu con người phát triển toàn diện về năng lực, đáp ứng được yêu cầu của hoạt động trong mọi tình huống thì càng tin tưởng ở nghị lực và sức mạnh của mình, càng vững vàng trên bước đường thực hiện mục tiêu, lí tưởng.b. Năng lực với tri thức, kĩ năng, kĩ xảoNhư trên đã nói: Năng lực bao giờ cũng gắn với một hoạt động cụ thể nào đó. Bởi vậy, để có năng lực trong lĩnh vực, nhất thiết phải có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về lĩnh vực đó. Năng lực và tri thức, kĩ năng, kĩ xảo có sự thống nhất nhưng không đồng nhất với nhau. Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong lĩnh vực nào là điều kiện để hình thành năng lực về lĩnh vực ấy. Muốn phát triển năng lực cho học sinh, trước hết phải giúp các em nắm chắc tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng. Mặt khác, năng lực lại được biểu hiện trong quá trình tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Người có năng lực trong lĩnh vực nào sẽ dễ dàng nắm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo lĩnh vực đó.Tuy nhiên, có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về một lĩnh vực chưa chắc đã có năng lực về lĩnh vực đó. Ví dụ, một học sinh nắm chắc công thức toán học và thuần thục trong việc giải các bài toán có liên quan, nhưng chưa chắc học sinh đó có năng lực toán học. Điều này rất cần thiết cho các nhà sư phạm trong việc phát hiện và bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu thành nhân tài cho đất nước.c. Năng lực với tính cáchNhững đặc điểm biểu hiện thái độ của con người đối với lao động, đối với người khác và đối với chính bản thân mình có ý nghĩa trung tâm trong tính cách của mỗi con người.Thái độ của cá nhân đối với hiện thực (cuộc sống, sự nghiệp,...) có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển năng lực. Chẳng hạn, nếu thái độ hời hợt đối với công việc không những ảnh hưởng xấu đến kết quả lao động mà còn ảnh hưởng xấu đến sự phát triển năng lực. Ngược lại, nếu thái độ say sưa, nhiệt tình trong công việc chính là điều kiện cần thiết để hình thành và phát triển năng lực. Chính ý thức trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ xã hội phân công, thái độ lao động say mê, cần cù đã có tác dụng đối với sự phát triển nhân cách, trong đó có năng lực và làm cho hoạt động cá nhân có năng suất cao. Macxim Gorki cho rằng: "Tài năng được phát triển từ tình yêu tha thiết đối với công việc...". Edison thì khẳng định: "99% của thiên tài là mồ hôi vả nước mắt". Chính trong quá trình lao động, con người không ngừng tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao trình độ về mọi mặt, các kĩ năng, kĩ xảo được hình thành và phát triển. Trong quá trình lao động, con người mới có điều kiện để phát huy sáng tạo, nảy sinh sáng kiến... Đó là những cơ sở để phát triển năng lực.Mặt khác, tinh thần hăng say lao động, thái độ cần cù chịu khó còn có ý nghĩa tích cực đối với việc cải biến những điều kiện tự nhiên của con người, làm cho con người được tôi luyện, những cơ chế bù trừ và bổ sung được hình thành, tạo điều kiện cho việc hoàn thiện và phát triển năng lực.Thái độ nghiêm khắc đối với bản thân và tinh thần tự phê bình cao có mối quan hệ chặt chẽ đối với việc phát triển năng lực của cá nhân. Năng lực của con người không phải tự nhiên mà có, cũng không phải hình thành một lần là xong, mà là kết quả của quá trình cá nhân tự rèn luyện lâu dài, gian khổ trong quá trình học tập, lao động... Thực tế cho thấy rằng, những người thực sự có tài bao giờ cũng là những người khiêm tốn, biết tôn trọng những thành tựu do bàn tay, khối óc của quần chúng sáng tạo nên, biết đánh giá đúng kết quả lao động và chỗ mạnh, chỗ yếu của mình, không bao giờ thoả mãn vả dừng lại ở những cái đã đạt được, luôn tự đề ra cho mình những yêu cầu những nhiệm vụ và chỉ tiêu phấn đấu ngày một cao, ngày một khó khăn, phức tạp. Họ luôn luôn cố gắng học tập mọi người, học tập quần chúng. Chính điều đó đã làm cho năng lực của họ không ngừng phát triển, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Thực tiễn đã chứng minh rằng: Nhiều người nhờ có tinh thần tự học cao và nghiêm túc, nên đã nhanh chóng nâng cao trình độ năng lực của mình về nhiều mặt. Ngược lại, cũng có những cán bộ thiếu khiêm tốn trong học tập, rèn luyện nên trình đô năng lực ngày càng sút kém, không theo kịp yêu cầu của thực tiễn, và trở nên thoái hoá, mất tín nhiệm.Năng lực cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính cách. Một năng lực dồi dào, phát triển toàn diện là điều kiện cần thiết cho một tính cách tự tin, mạnh mẽ, quyết đoán...
Created by AM Word2CHMII – CẤU TRÚC CỦA NĂNG LỰC à Như trên đã nói: Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có kết quả. Nói cách khác, năng lực có một cấu trúc tâm lí phức tạp, nó bao gồm nhiều thuộc tính kết hợp lại. Trong đó các thuộc tính tác động qua lại lẫn nhau, chi phối lẫn nhau, bổ sung cho nhau... Các thuộc tính của năng lực đều do nội dung và tính chất của hoạt động quy định một cách khách quan. Nói một cách cụ thể, thành phần của cấu trúc năng lực thay đổi tuỳ theo loại hình hoạt động. Ví dụ, cấu trúc của năng lực toán học bao gồm các thành phần cơ bản sau:+ Khả năng khái quát hoá lí luận cao+ Giàu trí tưởng tượng không gian+ Dễ dàng đảo ngược dòng tư duy- Cấu trúc năng lực văn học đòi hỏi cao ở các thành phần sau: + Tình cảm thẩm mĩ+ Tính nhạy cảm+ Tư duy hình tượng nghệ thuật- Cấu trúc năng lực sư phạm:+ Các thuộc tính chủ đạo, như kĩ năng vạch trước được tương lai của từng người và của cả tập thể, kết hợp với sự khéo léo sư phạm...+ Các thuộc tính chỗ dựa, như thái độ ân cần và yêu cầu cao cần thiết để thiết lập mối quan hệ qua lại đúng đắn với trẻ em...+ Các thuộc tính làm nền như giao tiếp, vốn văn hoá chung...- Cấu trúc của năng lực tạo hình:+ Trí tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật+ Sự nhạy cảm cao của bộ máy phân tích thị giác, đôi bàn tay khéo léo+ Trạng thái xúc cảm với những hiện tượng được cảm thụ. Nói tóm lại, mỗi loại hình hoạt động đều có một cấu trúc riêng. Tuy nhiên, cùng một năng lực nhưng ở những người khác nhau thì có cấu trúc năng lực không hoàn toàn giống nhau. Ví dụ, cùng có năng lực tổ chức nhưng có người được tạo bởi tính nhạy cảm đối với tâm tư, nguyện vọng của người khác, luôn luôn quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của những người xung quanh, có tinh thần trách nhiệm cao trước tập thể... Nhưng ở người khác lại được tạo ra bởi sự kết hợp hài hoà giữa lí và tình trong quan hệ với mọi người, sự tận tâm trong công việc, biết khéo léo phát huy chỗ mạnh và hạn chế chỗ yếu của từng người dưới quyền mình...Nói tóm lại, cấu trúc của năng lực thường có 3 thành phần, đó là:- Những thuộc tính giữ vai trò chủ đạo;- Những thuộc tính giữ vai trò cơ sở, chỗ dựa;- Những thuộc tính hỗ trợ làm nền.Một số nhà tâm lí học khác lại cho rằng năng lực bao gồm 3 thành phần:- Tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.- Khả năng vận dụng chúng vào hoạt động cụ thể.- Các thuộc tính nhân cách.
Created by AM Word2CHMIII – TIỀN ĐỀ TỰ NHIÊN VÀ ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI CỦA SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC à 1. Một số quan điểm sai lầm về điều kiện của sự phát triển năng lựca. Quan điểm sinh vật hoá năng lựcQuan điểm này cho rằng: bản chất, nguồn gốc của năng lực là do điều kiện tự nhiên quyết định, còn môi trường và giáo dục chỉ là điều kiện để cái tự nhiên trong con người được thể hiện ra, hoặc chỉ là những yếu tố thúc đẩy, có tác dụng làm bộc lộ sớm hơn hoặc muộn hơn những cái đã có sẵn đó mà thôi. Nhiệm vụ của nhà giáo dục chỉ nhằm làm phơi bày được những cái tự nhiên này của đứa trẻ. Quá trình phát triển năng lực chủ yếu là quá trình phát triển của gen, năng lực có tính chất tiền định, bất biến và phụ thuộc vào sự trang bị của gen (được mã hoá trong chương trình gen), nó được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các học giả tư sản khẳng định tư chất hoàn toàn quyết định năng lực và họ đồng nhất tư chất với năng lực (tư chất với năng lực là một). Họ cho rằng, năng lực chỉ là một thuộc tính tự nhiên của di truyền. Chẳng hạn:Toocdai (1874 - 1949) cho rằng: tự nhiên ban cho con người một vốn nhất định, giáo dục chỉ cần làm bộc lộ vốn đó ra.S. Freud (1856 - 1939) cho rằng tài năng của con người có nguồn gốc nằm trong tầng sâu bản năng dục vọng của con người và do sự biến dạng của bản năng tình dục. Ông cho rằng tài năng chẳng qua là sự thăng hoa của tình dục (năng lượng Libiđo). Hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, văn nghệ sĩ chẳng qua là phương tiện để thoả mãn những mong muốn về tình dục mà họ không được thực hiện, bị dồn nén lâu ngày.Ph. Gan ton (1882 - 1911) - nhà nhân chủng học người Anh,trong cuốn, Các quy luật và hậu hoạ của cổ truyền tài năng, đã khẳng định: thiên tài, tài năng là do di truyền quyết định. Khi dùng trắc nghiệm trí tuệ để đo chỉ số thông minh IQ, ông rút ra kết luận: Con em nhà giàu có chỉ số thông minh cao hơn so với con em nhà lao động. Ông đã sử dụng điều này như một công cụ để phục vụ cho sự phân biệt đối xử trong xã hội và đã lấy rất nhiều ví dụ để cố chứng minh cho luận điểm nói trên như: * Dòng họ gia đình nhạc sĩ thiên tài người Đức - J.Bach, trong 5 đời đã cung cấp cho xã hội 18 nhạc sĩ nổi tiếng.* Cả gia đình Mozart đều là nhạc sĩ (ông bà nội, ông bà ngoại, bố mẹ, chị gái)...Chủ nghĩa Mác đã phê phán kịch liệt quan điểm trên và cho rằng quan điểm này vừa sai lầm về mặt khoa học vừa phản động về mặt tư tưởng. Nó sinh ra chỉ nhằm bào chữa cho sự bất công trong xã hội có giai cấp, phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị, cho chính sách phân biệt chủng tộc. Từ quan điểm này họ đã gieo rắc vào quần chúng tư tưởng cho rằng năng lực phụ thuộc vào dòng dõi huyết thống, chỉ có dòng dõi quyền quý mới có năng lực xứng đáng để cai trị mọi người. Trong thực tế, có nhiều người xuất thân từ những gia đình rất bình thường nhưng vẫn trở thành những tài năng xuất chúng.Chẳng hạn, thiên tài Lomonoxov là con của một gia đình đánh cá, Pharađay là con một gia đình thợ rèn, Sopanh là con một người kế toán...b. Quan điểm xã hội hoá năng lựcQuan điểm này phủ nhận hoàn toàn vai trò của các tiền đề tự nhiên và tìm cách chứng minh rằng: tất cả mọi người đều giống nhau về năng lực vì năng lực do những điều kiện xã hội quy định. Những người theo quan điểm này cho rằng: bất kì người nào cũng có thể trở thành thiên tài nếu được giáo dục đúng hướng.Tâm lí học mác xít cũng phê phán sự sai lầm về mặt khoa học của quan điểm này. Thực tế cho thấy, nếu cá nhân không có những tiền đề sinh học nhất định tương ứng với một hoạt động không thể trở thành tài năng trong hoạt động đó. Ví dụ, một người không có chất giọng tự nhiên tốt thì dù có giáo dục, đào tạo tốt đến đâu cũng không thể trở thành một ca sĩ hát hay được,... Như vậy, quan điểm này chỉ có ý nghĩa về mặt nhân văn mà thôi.2. Quan điểm của tâm lí học mác xíta. Tư chất là điều kiện tự nhiên của năng lựcRõ ràng tư chất không định trước năng lực và không phải là năng lực. Ngay trong lí luận sinh học cũng đã khẳng định rằng: không phải mọi đặc điểm đều được di truyền và những đặc điểm di truyền không phải đều được thể hiện ở thế hệ sau. Đặc điểm di truyền có được bảo tồn và thể hiện ở thế hệ sau hay không và thể hiện ở mức độ nào đều đo hoàn cảnh sống quyết định. Mặt khác, năng lực của con người xét cho cùng chỉ là sự thích ứng tốt nhất với điều kiện lao động và sinh hoạt, mà điều kiện lao động và sinh hoạt của con người lại luôn luôn biến đổi. Do đó, để tồn tại và phát triển, con người không chỉ trông cậy vào "vốn liếng" ít ỏi do cha ông để lại. Điều quan trọng hơn là con người không ngừng tự tạo nên những sự thích ứng ngày càng cao trong đời sống cá thể của mình.Chủ nghĩa Mác cũng không phủ nhận vai trò của tư chất. Quan điểm phủ nhận vai trò của yếu tố tư chất đối với sự hình thành và phát triển năng lực là không đúng. Không thể tách rời năng lực với thực thể vật chất, bởi vì trong rất nhiều hoạt động, năng lực của con người phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm cơ thể (ví dụ như ca sĩ phụ thuộc vào chất giọng, vận động viên phụ thuộc vào thể lực, cơ bắp và sự khéo léo...).Tư chất của mỗi cá nhân là những đặc điểm bẩm sinh và di truyền. Nó gồm cả những yếu tố tự nhiên và yếu tố tự tạo. Trong cuộc sống, trong hoạt động, tư chất luôn luôn biến đổi. Chẳng hạn, đôi tai bình thường của một em bé, do được tiếp xúc nhiều với môi trường âm nhạc, sẽ ngày một trở nên tinh tế hơn, phân biệt âm thanh chính xác hơn, tức là đã chuyển từ một đôi tai bình thường thành một đôi tai âm nhạc.Tư chất là điều kiện vật chất, là tiền đề tự nhiên cần thiết cho sự hình thành và phát triển năng lực, nó có ảnh hưởng nhất định đến sự khác biệt về năng lực giữa người này với người khác. Tư chất không định hướng trước năng lực. Năng lực không nằm trong tư chất và không phải là tư chất. Không phải bất cứ một năng lực nào cũng đòi hỏi một đặc điểm tư chất tương ứng. Một đặc điểm tư chất có thể là tiền đề cho nhiều loại năng lực khác nhau. Ví dụ cùng một kiểu thần kinh nhạy cảm nhưng người này hình thành năng lực kĩ thuật, người kia lại hình thành năng lực văn học...Có thể nói, tư chất là điều kiện cần, nhưng không phải điều kiện đủ của sự hình thành và phát triển năng lực. Ví dụ, người có đôi tai tinh tế chưa đủ để thành một nhạc sĩ, mà đó chỉ là một điều kiện thuận lợi để trở thành một nhạc sĩ mà thôi. Năng lực âm nhạc không phải là một thuộc tính bẩm sinh hay từ truyền của cơ thể mà là kết quả của toàn bộ sự phát triển nhân cách thông qua hoạt động tích cực của cá nhân trong lĩnh vực âm nhạc. Có tư chất tốt mà không được giáo dục, không gặp hoàn cảnh thuận lợi và không chịu hoạt động thì tư chất đó cũng không thể bộc lộ và dần dần bị thui chột.b. Điều kiện xã hội của năng lựcNăng lực của mỗi con người được hình thành, phát triển và biểu hiện trong quá trình sống và hoạt động của họ trong lòng xã hội loài người, trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định: Đây là một luận điểm rất quan trọng của tâm lí học macxit (Tâm lí của con người chỉ được hình thành và phát triển trong quá trình sống và hoạt động của cá nhân. Hoạt động là nguồn gốc, là điều kiện cơ bản để hình thành và phát triển tâm lí). Như vậy hoạt động cũng là nguồn gốc và điều kiện cơ bản để hình thành và phát triển năng lực. Chúng ta không thể tìm thấy một nhà khoa học nào mà cuộc đời lại không gắn bó với một hoạt động mà họ tinh thông. Hoạt động của con người càng phong phú thì năng lực càng có điều kiện đơm hoa kết trái.Hoạt động của con người bao giờ cũng diễn ra trong một điều kiện xã hội lịch sử nhất định. Sự phát triển năng lực của mỗi người chịu sự quy định của các điều kiện lịch sử xã hội, như trình độ phát triển kinh tế, trình độ văn hoá khoa học kĩ thuật, nền văn minh của nhân loại và dân tộc... Năng lực của con người ngày nay hoàn toàn khác với năng lực con người ở các thời kì lịch sử trước đây.Xét về nguồn gốc và nội dung của năng lực, ở con vật là do chủ yếu những điều kiện tự nhiên, còn môi trường sống của nó chỉ là điều kiện. Còn đối với con người, năng lực không có sẵn trong cơ thể mà ở trong môi trường xã hội, các yếu tố tự nhiên chỉ là điều kiện. Nói cách khác, nguồn gốc và nội dung năng lực của mỗi người là các điều kiện lịch sử xã hội họ đang sống và hoạt động. Nếu con người sinh ra không sống trong lòng nền văn minh của xã hội loài người thì không thể có năng lực người (không có tâm lí người). Điều kiện xã hội của năng lực là những điều kiện sống cụ thể của cá nhân, đó là ảnh hưởng của gia đình, nhà trường, khu phố, làng xóm...Gia đình có vai trò chăm lo nuôi dạy đứa trẻ từ bé, hình thành những mầm mống, nền tảng đầu tiên của nhân cách. Rất nhiều đứa trẻ có năng khiếu được gia đình phát hiện đầu tiên và sau đó cùng với nhà trường và xã hội chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục để trở thành tài năng sau này.Nhà trường có vai trò chủ đạo đối với sự phát triển năng lực của thế hệ trẻ. Chỉ có giáo dục nhà trường mới có khả năng thâu tóm nền văn minh của nhân loại, "chế biến" cho phù hợp với quá trình lĩnh hội của trẻ và đưa sự phát triển của chúng đạt tới yêu cầu mà xã hội đòi hỏi. Để tránh sự "bình quân" về năng lực, nhà trường càng lên cao cấp học cao hơn càng phân hoá đa dạng tạo cho cá nhân sự lựa chọn phát triển năng lực chuyên sâu đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp, thị trường lao động... Những trẻ em có năng khiếu được tuyển vào hệ thống trường chuyên lớp chọn cũng là nhằm tạo ra con đường và điều kiện cho sự phát triển năng lực của trẻ một cách tối ưu. Nhà trường quan trọng không phải chỉ vì có nội dung, chương trình, kế hoạch, phương pháp, điều kiện và phương tiện hoạt động phù hợp... mà không khí học tập, giao lưu bè bạn của tập thể học sinh có ý nghĩa khuyến khích mạnh mẽ đối với từng cá nhân. Xã hội càng phát triển, giáo dục nhà trường càng trở nên quan trọng hơn đối với việc phát triển năng lực cho thế hệ trẻ.Dư luận xã hội, sự đánh giá và thừa nhận của xã hội, các chính sách khuyến khích tài năng... cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển năng lực của cá nhân. Sự phát triển năng lực của mỗi người chịu sự quy định của các điều kiện lịch sử xã hội, trước hết đó là sự phát triển kinh tế, khoa học kĩ thuật và chế độ chính trị xã hội.Năng lực của con người phụ thuộc vào sự phân công lao động xã hội. Trong quá trình phát triển lịch sử của xã hội loài người, con người phải tích cực hoạt động nhằm thoả mãn những nhu cầu để tồn tại và phát triển. Ngay từ thời nguyên thủy, xã hội đã tiến hành phân công lao động. Sự phân công lao động đã dựa vào năng lực sơ khai của từng người. Đồng thời trong quá trình lao động sự phân công lao động là điều kiện cho năng lực của từng người được hình thành và phát triển. Mác khẳng định: Sự khác biệt tài hoa của con người không chỉ là nguyên nhân gây ra sự phân công lao động mà là kết quả của sự phân công lao động.Năng lực của một cá nhân còn phụ thuộc vào chế độ xã hội. Với sự phát triển tiến lên của xã hội, năng lực con người phát triển theo trình độ kinh tế, khoa học kĩ thuật. Trình độ kinh tế, khoa học kĩ thuật của xã hội càng phát triển thì càng tạo ra những nhu cầu mới và những điều kiện mới cho cá nhân phát triển năng lực.Nhưng năng lực của con người có được phát triển toàn diện hay không, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, mọi người đều có cơ hội phát triển hay chỉ có một số người được ưu đãi, điều đó lại do chế độ xã hội quyết định.Trong xã hội có giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, đại đa số người dân lao động đều không có điều kiện để phát triển năng lực của mình. Những năng lực tiềm tàng của người dân lao động bị giai cấp thống trị bóp nghẹt, vùi dập, kìm hãm. Chỉ có chế độ XHCN mới tạo điều kiện cho quần chúng nhân dân lao động phát triển năng lực của mình. Đồng thời, mỗi người đều coi việc phát triển năng lực toàn diện của mình là yêu cầu trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân đối với xã hội. Dưới chế độ XHCN, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện cho mọi người được phát triển năng lực của mình. Không thể kể hết tên con em của những người lao động bình thường trong chế độ ta đã được đào tạo trở thành những tài năng. Tóm lại, tác động tích cực nhất của xã hội đối với sự hình thành và phát triển năng lực cá nhân là tác động giáo dục, đặc biệt là nền giáo dục XHCN. Giáo dục nhà trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển năng lực của thế hệ trẻ.
Created by AM Word2CHMIV – VẤN ĐỀ PHÁT HIỆN NĂNG KHIẾU VÀ BỒI DƯỠNG NHÂN TÀI à Việc phát hiện năng khiếu và bồi dưỡng nhân tài từ trước đến nay đã trở thành sự quan tâm đặc biệt của các bậc cha mẹ, thầy cô giáo và toàn thể xã hội. Muốn làm tốt nhiệm vụ nói trên chúng ta cần phải hiểu biết về năng khiếu và con đường phát triển từ năng khiếu đến tài năng như thế nào.1. Khái niệm về năng khiếuNăng khiếu là dấu hiệu phát triển sớm của trẻ về một tài năng nào đó, khi đứa trẻ chưa tiếp xúc có hệ thống, có tổ chức trong lĩnh vực hoạt động tương ứng.Ví dụ, có những trẻ em chưa được học vẽ có hệ thống, có tổ chức mà đã có những nét vẽ độc đáo, gây được cảm xúc thẩm mĩ cho người xem...Các nhà tâm lí học cho rằng: Năng khiếu là hệ thống tiền đề bên trong dựa trên những tư chất bẩm sinh di truyền cho phép con người giải quyết được một hay vài yêu cầu nhất định nào đó của cuộc sống, mặc dù chưa được đào tạo.Người ta cũng chia năng khiếu ra các mức độ khác nhau như năng khiếu cao, năng khiếu cao tiềm ẩn, năng khiếu cao tiềm năng.Năng khiếu không phải là tài năng, mà nó chỉ là dấu hiệu của tài năng.Nếu tài năng là một cấu trúc tâm lí khá hoàn thiện của cá nhân, nó bao gồm tương đối đầy đủ những thành phần tâm lí cần thiết, phù hợp với những yêu cầu tâm lí đặc trưng của một lĩnh vực hoạt động nhất định, thì năng khiếu ở dạng sơ khai, cấu trúc chưa hoàn thiện, mới chỉ xuất hiện một số thành phần, nhưng là thành phần cơ bản, là dấu hiệu của một tài năng sắp xuất hiện. Chẳng hạn một em bé có khả năng tư duy lôgic tốt, sử dụng các thao tác tư duy linh hoạt... thì ta có thể đoán em đó đang hình thành năng khiếu toán học.Trong cấu trúc tài năng, những thành phần tâm lí đã phát triển đạt đến độ chín muồi, được khái quát ở mức độ cao. Do được củng cố nhiều lần trong một hoạt động nhất định nên có tính chất bền vững, ổn định. Trái lại, những thành phần tâm lí trong cấu trúc năng khiếu mới được hình thành, mới chỉ được khái quát bước đầu, chưa được củng cố nhiều trong hoạt động nên chưa vững chắc, dễ thay đổi, có khi mất hẳn.Như vậy, chúng ta không thể hiểu năng khiếu là tài năng, năng khiếu cũng không chỉ là dấu hiệu báo trước một tài năng mà chính trong bản thân nó đã chứa đựng những yếu tố để hình thành tài năng. Laytex nhận định rằng: năng khiếu của trẻ không chỉ biểu hiện ở kết quả của hoạt động mà còn biểu hiện trong chính những đặc điểm hình thành năng lực.Vấn đề đặt ra là, một đứa trẻ xuất hiện năng khiếu nào đó, chúng có phát triển thành tài năng hay không? Thực tế cho thấy năng khiếu chưa hẳn biến thành tài năng. Con đường từ năng khiếu đến tài năng là cả một quá trình phát triển có lúc nhanh chóng thuận lợi, có lúc lâu dài gian khổ, phức tạp, quanh co, đứt đoạn, thậm chí có trường hợp năng khiếu bị thui chột đi, không bao giờ trở thành tài năng. Vì vậy, việc phát hiện năng khiếu và tìm những biện pháp đúng đắn, tạo điều kiện tốt để nó biến thành tài năng thực sự là một vấn đề khó khăn. Nhưng do tầm quan trọng của nó, các nhà giáo dục cần phải quan tâm nghiên cứu, tìm tòi một cách công phu để bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.2. Bồi dưỡng nhân tàiVấn đề đào tạo và bồi dưỡng nhân tài hiện nay trong khoa học vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Chẳng hạn như, Thuyết Phát triển nội sinh, Thuyết Phát triển ngoại sinh, Thuyết Hội tụ...Quan điểm macxít cho rằng con người không phải là khách thể thụ động của những yếu tố phát triển của nó, không phải là kết quả cơ học của di truyền, bẩm sinh, của môi trường hay của sự phát triển chung của hai yếu tố đó. Con người tự tạo ra nhân cách của mình chủ yếu bằng hoạt động tương tác tích cực với các điều kiện sống bên ngoài - môi trường tự nhiên và môi trường xã hội xung quanh họ. Những điều kiện này không tác động trực tiếp mà tác động một cách gián tiếp thông qua hoạt động của cá nhân.Điều kiện môi trường, trước hết là môi trường giáo dục có vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách. Nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục là tổ chức mọi điều kiện phát triển sao cho trẻ em tiếp thu và thực hiện những yêu cầu của thực tiễn, hình thành và phát triển nhân cách phù hợp với mục đích giáo dục do xã hội đề ra.Theo các nhà tâm lí học Nga thì tài năng là một đặc tính của nhân cách có thể giáo dục đào tạo được. Vào những năm 80 của thế kỉ trước, các nhà giáo dục của Liên bang Nga cho rằng, trong nhân dân có rất nhiều tài năng, tài năng không tự nhiên có mà chính là do con người tạo ra. Xã hội thiếu tài năng là do nhà trường và xã hội không đặt ra nhiệm vụ đào tạo tài năng hoặc đặt ra nhưng chưa đào tạo đúng. Theo tiến sĩ Volcov, về nguyên tắc đào tạo tài năng là không khó, chỉ cần nhà trường biết tạo điều kiện cho học sinh thử sức trong các hoạt động sáng tạo khác nhau.Các nhà giáo dục Đức cho rằng, bồi dưỡng nhân tài là hình thành ở học sinh những thuộc tính của nhân cách như hứng thú trí tuệ, tính nhạy cảm, trí tưởng tượng... Bồi dưỡng tài năng chính là làm bộc lộ nhu cầu trí tuệ và khát vọng thực hiện nhu cầu đó.Tiếp thu những quan điểm trên, các nhà giáo dục châu Á - Thái Bình Dương (trong hội thảo Tokyo - 1993) thống nhất cho lằng: Đào tạo, bồi dưỡng tài năng không phải là truyền thụ có tính áp đặt những tri thức, kĩ năng, mà đơn giản là tạo cơ hội cho học sinh có năng khiếu cao thể hiện tài năng bằng các hoạt động bổ sung, nâng cao, trong đó các em được động viên, khuyến khích, hỗ trợ để đương đầu với những thử thách ngày càng cao trong học tập hay luyện tập.Quá trình bồi dưỡng nhân tài có thể tiến hành như sau: a. Cần phải phát hiện sớm và đúng những đứa trẻ có năng khiếu Năng khiếu thường xuất hiện rất sớm ở trẻ. Mozart bộc lộ năng khiếu âm nhạc từ năm lên 3, Raphaen 8 tuổi đã vẽ rất giỏi, Newton 8 tuổi đã làm được trò chơi cơ học... Nhưng khi nào chúng ta có thể biết được ở trẻ xuất hiện năng khiếu? Đó là thời kì ta nhận thấy ở trẻ có những phẩm chất tâm lí đặc biệt, đó là (một số thành phần cơ bản, những dấu hiệu thuộc về bản chất của một tài năng). Trong tâm lí học, người ta gọi đó là thời kì phát cảm. Theo Leonchiev và Vugoxki thì đây là thời kì tối ưu cho sự phát triển năng khiếu. Phát hiện kịp thời và tác động vào thời kì này là hết sức quan trọng. Nền giáo dục đúng đắn thi năng khiếu của trẻ sẽ phát triển thuận lợi, nếu không, năng khiếu sẽ chậm phát triển, thậm chí còn mai một và thui chột đi. Thực tế đã cho thấy, nhiều người lúc còn bé đã bộc lộ năng khiếu đặc biệt nhưng lúc lớn lên chỉ trở thành một người bình thường. Phát hiện sớm những thành phần cơ bản của một năng khiếu nào đó ở trẻ là một bước quan trọng của việc bồi dưỡng nhân tài. Muốn phát hiện năng khiếu kịp thời và đúng đắn, chúng ta cần có những hiểu biết sâu sắc về những thành phần cơ bản trong cấu trúc của từng loại năng khiếu.Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà tâm lí học về từng loại năng khiếu, trong đó có nhiều công trình có giá trị như công trình nghiên cứu về năng khiếu âm nhạc của Cheplov, công trình nghiên cứu về năng khiếu tạo hình của Kreencô, công trình nghiên cứu năng khiếu toán học của Kruchevxki...Việc phát hiện đúng và kịp thời năng khiếu của trẻ là bước đầu tiên và cũng hết sức quan trọng trong việc bồi dưỡng nhân tài. Trước hết, nhà giáo dục cần nghiên cứu kĩ các công trình nghiên cứu của tâm lí học, trên cơ sở đó tìm kiếm, lựa chọn, sáng tạo những biện pháp giáo dục thích hợp nhằm khơi dậy ở trẻ những chức năng tâm lí đặc trưng của năng khiếu phù hợp với từng loại hoạt động. Ví dụ, bồi dưỡng năng khiếu toán học cho học sinh, giáo viên cần ra nhưng bài tập phát triển tư duy sáng tạo, lôgic...b. Cần chú ý đến khuynh hướng hoạt động của trẻ Khuynh hướng hoạt động của trẻ là dấu hiệu đầu tiên và sớm nhất của sự hình thành các năng khiếu. Khuynh hướng biểu hiện ở nguyện vọng, ý hướng của trẻ đối với một hoạt động nhất định. Có em mới 2 - 3 tuổi đã có thể ngồi vẽ hàng giờ không biết chán...Ở trẻ em thường nảy sinh nhiều khuynh hướng khác nhau, và được biểu hiện đa dạng trong hoạt động. Phần lớn những trường hợp xuất hiện khuynh hướng sớm ở trẻ về một lĩnh vực hoạt động nào đó, chứng tỏ rằng em đó có những tiền đề bẩm sinh thuận lợi để phát triển năng khiếu về lĩnh vực đó. Ví dụ, những em có tai thính thường nhạy cảm với âm thanh.Chú ý đến khuynh hướng hoạt động của trẻ là bước đầu tiên trong việc phát hiện năng khiếu. Tuy nhiên, có trường hợp sự xuất hiện khuynh hướng và sự hình thành năng khiếu không thật ăn khớp với nhau nhưng đó là những khuynh hướng hời hợt. Chỉ có khuynh hướng thực sự mới là dấu hiệu của sự hình thành năng khiếu. Khi có khuynh hướng thực sự, trẻ em không những bị thu hút vào hoạt động, mà trong hoạt động còn đạt được kết quả cao hơn so với những trẻ khác. Làm sao để duy trì được khuynh hướng và tạo điều kiện tốt để các em hoạt động trong lĩnh vực mình ưa thích, đó là điều kiện cần chú ý trong công tác bồi dưỡng năng khiếu.c. Cần tổ chức tốt cho trẻ hoạt động trong lĩnh vực mà khuynh hướng của trẻ biểu hiện rõ nhấtSự phát triển năng khiếu của trẻ trực tiếp dựa vào mức độ củng cố khuynh hướng của chúng trong hoạt động nhất định nào đó. Chính trong quá trình hoạt động, những thành phần của năng khiếu được củng cố thêm, những thuộc tính mới được hình thành và những tiền đề bẩm sinh chưa hoàn thiện được hoàn thiện thêm. Vì vậy, đưa trẻ vào hoạt động có tổ chức là điều kiện cần thiết để năng khiếu được hình thành và phát triển một cách thuận lợi. Khó có thể tưởng tượng một đứa trẻ yêu thích một lĩnh vực nào đó lại không say mê hoạt động trong lĩnh vực đó. Trong quá trình hoạt động đứa trẻ có dịp được thử sức mình, tiếp xúc với công việc, đứa trẻ thấy được chỗ mạnh chỗ yếu của mình, thấy được mình cần cố gắng ở mặt nào để đạt kết quả cao. Ngược lại, những thành tích đạt được cũng làm tăng thêm sự ham thích đối với công việc, thôi thúc các em nỗ lực ý chí để đạt kết quả cao hơn. Chính trong quá trình hoạt động, những chức năng tâm lí phù hợp với những yêu cầu của hoạt động được kích thích, khơi dậy và được củng cố bền vững được phát triển cao hơn. Nhiều trẻ em lúc bình thường không thấy một biểu hiện năng khiếu nào cả. Nhưng khi đưa em đó vào hoạt động, những khả năng bắt đầu xuất hiện và có khi đó là những khả năng đặc biệt.Như vậy, năng khiếu không chỉ biểu lộ và tồn tại mà còn nảy sinh và phát triển trong hoạt động. Hoạt động của trẻ cần phải có tổ chức, có hướng dẫn chặt chẽ mới bảo đảm được những bước tiến vững chắc từ thấp đến cao, mới kịp thời phát huy những khả năng mới được hình thành và uốn nắn những lệch lạc nảy sinh trong tâm hồn và trong hành vi của trẻ. Khi tổ chức cho trẻ hoạt động một cách thuận lợi trong lĩnh vực phù hợp với khuynh hướng của chúng, chúng ta lại phải tổ chức cho trẻ hoạt động nhiều mặt khác nữa. Vì bất cứ một sự phiến diện nào trong hoạt động cũng đều đưa đến một nhân cách què quặt, tài năng cũng sẽ bị kìm hãm. Hoạt động càng nhiều mặt, càng có nội dung phong phú bao nhiêu, năng lực càng phát triển rõ rệt và đầy đủ bấy nhiêu.d. Cần cung cấp tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết cho các emMuốn phát triển năng lực, con người phải nắm vững và vận dung một cách sáng tạo những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo vì đó là cơ sở, là nền tảng của năng lực con người. Một người không có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong lĩnh vực nào thì không có năng lực trong lĩnh vực đó. (Tuy nhiên, một người có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong một lĩnh vực cũng chưa chắc đã có năng lực về lĩnh vực đó). Không tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, con người sẽ không có một tài năng nào hết. Mức độ phát triển tài năng phụ thuộc vào mức độ nắm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Mặt khác, tài năng giúp cho việc nắm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo diễn ra nhanh hơn, thuận lợi hơn. Rõ ràng việc phát triển tài năng và việc nắm tri thức, kĩ năng, kĩ xảo có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi đứa trẻ xuất hiện năng khiếu là lúc đứa trẻ chưa có tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Quá trình phát triển năng khiếu thành tài năng chính là quá trình tích luỹ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo. Muốn phát triển năng khiếu thành tài năng cần phải cung cấp tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết làm cơ sở.Tuy vậy, chúng ta không nên quy tất cả việc bồi dưỡng năng khiếu vào việc cung cấp tri thức, kĩ năng, kĩ xảo vì giữa chúng có sự khác biệt rõ ràng. Tài năng là một cấu trúc tâm lí bên trong cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động còn tri thức kĩ năng, kĩ xảo là vốn kinh nghiệm của loài người cá nhân thu lượm được trong quá trình học tập, rèn luyện.e. Giáo dục nhu cầu và hứng thú nhận thứcNhu cầu nhận thức là nguồn gốc hình thành hứng thú nhận thức. Ngược lại, hứng thú nhận thức là dạng biểu hiện của nhu cầu nhận thức. Nhu cầu thông tin và kiến thức, nhu cầu hoạt động trí tuệ sáng tạo là cơ sở hình thành hứng thú nhận thức.Sự xuất hiện sớm các hứng thú là dấu hiệu quan trọng của năng lực trong một lĩnh vực nhất định. Vì vậy, trong giáo dục cần khuyến khích các em muốn được làm theo hứng thú của mình, kể cả những hứng thú không liên quan đến lĩnh vực được đề cập đến ở lớp, ở trường. Những học sinh sáng tạo thường có hứng thú lệch ra ngoài bài giảng trên lớp. Trong trường hợp đó, giáo viên không những không hạn chế những hứng thú đó của các em mà còn phải tìm ra phương pháp khuyến khích, bồi đắp hứng thú đó. Để làm được việc này, giáo viên phải thật độ lượng, đồng cảm với niềm say mê, hứng thú của học sinh, không được tỏ thái độ hạn chế, trấn áp hay trừng phạt các em về sự không tập trung vào bài giảng. Nhiệm vụ đào tạo tài năng được bắt đầu từ sự phát triển các hứng thú cho học sinh ở những lĩnh vực nhất định.Khả năng hình thành các nhu cầu nhận thức trong quá trình sư phạm tuỳ thuộc vào nội dung giảng dạy và kiểu cách truyền thụ của giáo viên và cách thức tổ chức hoạt động trí tuệ của học sinh. Sự khai thác cái mới trong nội dụng bài giảng, sự cấu trúc lại tri thức, sự trình bày lại con đường sáng tạo của các nhà khoa học có tác dụng thúc đẩy hứng thú nhận thức và phát triển tài năng học sinh. Bên cạnh bài giảng trên lớp, các hoạt động ngoại khoá, hoạt động thực tiễn... cũng tạo cơ hội thúc đẩy sự phát triển tài năng của học sinh.f. Hình thành năng lực làm việc và thói quen tiết kiệm thời gianSự giáo dục tính kiên nhẫn và ham muốn hoạt động tinh thần, khả năng lao động căng thẳng, thói quen tiết kiệm thời gian là một mục đích cơ bản của giáo dục tài năng. Từ bài học của cuộc sống, Edison cho rằng: thiên tài là cần cù. Tài năng thiên bẩm giúp con người không cần đến sự căng thẳng ý chí khi hoàn thành công việc. Điều này chỉ đúng với rất ít trường hợp, thực ra năng lực làm việc căng thẳng và tập trung cao độ mới chính là điều kiện cơ bản đối với sự phát triển tài năng (tài năng tự tạo).Điều đáng nói ở đây không đơn thuần là sự căng thẳng mà quan trọng là tính hiệu quả, tức là mối tương quan của sự căng thẳng có ý thức với kết quả mong muốn của hoạt động. Học sinh có năng khiếu cao nói chung thường không bỏ phí thời gian. Quá trình học tập của loại học sinh này diễn ra liên tục để tận dụng hết năng lực của mình. Những học sinh năng khiếu cao cảm thấy hạnh phúc lớn khi vượt qua những khó khăn, trở ngại trên con đường nhận thức.Một thủ thuật sư phạm có giá trị là không để một học sinh năng khiếu cao phải dùng hết thời gian trong giờ lên lớp vào việc giải quyết nhiệm vụ học tập mà phải dành thời gian cho các em thực hiện các nhiệm vụ khác theo điều khiển của nhà giáo dục. Chẳng hạn, học thêm chương trình nâng cao để vươn tới một tài năng thực thụ.g. Giáo dục năng lực nhận thứcMọi sáng tạo của con người, đặc biệt là trong thời đại ngày nay đều là kết quả của sự hợp tác lao động cùng nhau của nhiều người. Vì vậy, ngày nay sự bộc lộ tài năng phải được thể hiện trước hết ở năng lực cộng tác với nhau trong hoạt động. Hoạt động cộng tác và quan hệ với nhau trong cộng đồng là yếu tố vừa định hưởng tài năng, vừa nâng cao tài năng. Cộng đồng sẽ phát huy được tiềm năng và khả năng hoạt động sáng tạo của mỗi thành viên. Một học sinh được gọi là có năng lực cộng tác khi em đó có những thuộc tính nhân cách sau đây:- Có kiến thức vững vàng trong lĩnh vực cần cộng tác, giàu trí tưởng tượng cũng như có lí tưởng nghề nghiệp và lí tưởng sống.- Có ý chí cao, tự chủ, bền bỉ, kiên trì, không ngã lòng khi gặp khó khăn, không thoả mãn thái quá, có lòng ham muốn cầu tiến.- Có phẩm chất đạo đức trong sáng, sẵn sàng giúp đỡ người khác và quý trọng thành tích của người khác.- Có phong cách làm việc và ứng xử phù hợp với cuộc sống và hoạt động xã hội, có tinh thần lạc quan, lên án chủ nghĩa vụ lợi dựa dẫm người khác, có quan hệ xã hội phong phú.h. Giáo dục năng lực trí tuệ chungMột trình độ cao của năng lực trí tuệ chung là cơ sở quyết định cho việc giáo dục năng lực chuyên biệt. Trong cấu trúc của tài năng trên một lĩnh vực nào đó bao giờ cũng có mặt năng lực trí tuệ chung. Quá trình giáo dục năng lực trí tuệ chung bao gồm các nội dung sau đây:- Giáo dục năng lực phản ánh thế giới bên ngoài. Những phản ánh này thường xuyên được hoàn thiện nhờ học tập. - Giáo dục năng lực vận dụng những hành động và thao tác trí tuệ, năng lực lựa chọn thông tin, năng lực chế biến sắp xếp chúng vào kho tàng nhận thức của cá nhân.- Giáo dục năng lực giải quyết vấn đề một cách tự lập, đặc biệt là năng lực tự xây dựng chiến lược giải quyết vấn đề hợp lí và độc đáo.- Giáo dục năng lực dự kiến trước cách hành động và kết quả hành động trong tương lai, lật đi lật lại vấn đề trong óc. i. Giáo dục trí nhớĐể phát triển tài năng thì việc hình thành cấu trúc trí nhớ là đặc biệt quan trọng. Một số thao tác trí nhớ nảy sinh từ các thao tác tư duy, vì vậy chúng có thể được vận dụng cho việc cung cấp thông tin từ trí nhở. Điều quan trọng của phát triển tài năng là tạo điều kiện để trí nhớ phục vụ cho sự phân tích "bản chất - không bản chất" theo những lĩnh vực chuyên biệt. Điều này được thể hiện như sau:+ Giáo dục sự hình thành năng lực đơn giản hoá các mối quan hệ vốn phức hợp để làm lộ rõ mối quan hệ rộng hơn trong việc giải quyết vấn đề. Việc biểu thị sự đơn giản hoá này bằng mô hình, khái niệm... đòi hỏi một năng lực gọi là năng lực gọi ra những phần cần thiết từ trí nhớ, huy động được những tri thức kinh nghiệm chứa đựng trong bộ nhớ.+ Giáo dục năng lực chuyển từ trực quan đến khái niệm và ngược lại. Điều này liên quan đến khả năng xây dựng cái mới xuất phát từ trí nhớ, nghĩa là hình thành năng lực tạo ra cái mới bằng cách thay đổi cách nhìn đối với cái cũ, hoặc thay đổi mối quan hệ giữa những tri thức kinh nghiệm cũ.+ Thực hiện các phương pháp tác động sư phạm nhằm mục đích hình thành các đặc điểm bản chất của các thao tác tư duy, thao tác ghi nhớ cũng như thao tác tái hiện điều ghi nhớ. Sự kết nối nhiều tầng các tri thức, các kinh nghiệm đồng thời với sự tác động hợp lí, kịp thời sẽ làm chúng khắc sâu hơn và gợi nhớ lại được ngay cả khi những yêu cầu mới và khác lạ được đặt ra.
Created by AM Word2CHMTÓM TẮT CHƯƠNG V à - Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động có kết quả.- Có ba mức độ khác nhau của năng lực: Năng lực, tài năng và thiên tài.- Để tiện cho công tác giáo dục, người ta chia năng lực thành năng lực chung và năng lực riêng (năng lực chuyên biệt). Hai loại năng lực này có quan hệ biện chứng với nhau. Năng lực riêng chính là năng lực chung được phát triển theo một hướng chuyên biệt nào đó và năng lực chung là cơ sở của năng lực riêng. Vì vậy, việc bồi dưỡng năng lực riêng không thể tách rời việc bồi dưỡng năng lực chung, bởi vì sự phát triển của các năng lực là thực chất của sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi nhân cách. - Năng lực có quan hệ hữu cơ với các thuộc tính khác trong hệ thống cấu trúc tâm lí cá nhân. Mối quan hệ đó thực chất là mối quan hệ giữa phẩm chất đạo đức và năng lực trong một con người. Trong mối quan hệ đó, những thuộc tính đạo đức giữ vai trò chủ đạo và chi phối sự phát triển các thuộc tính năng lực, và những thuộc tính năng lực cũng ảnh hưởng, tác động tích cực đến sự phát triển của các thuộc tính đạo đức. Bất cứ cá nhân nào cũng phải có đủ phẩm chất và năng lực thì mới đảm bảo hoạt động có kết quả cao.- Năng lực có một cấu trúc tâm lí cơ động và phức tạp, nó bao gồm nhiều thuộc tính kết hợp tác động qua lại lẫn nhau, chi phối bổ sung cho nhau. Mỗi loại hoạt động có một cấu trúc năng lực tương ứng riêng và ngay cùng một năng lực nhưng ở mỗi người cũng mỗi khác. Tuy nhiên, thường năng lực cấu trúc gồm 3 thành phần, đó là:+ Những thuộc tính giữ vai trò chủ đạo;+ Những thuộc tính giữ vai trò cơ sở, chỗ dựa; + Những thuộc tính hỗ trợ làm nền.- Năng lực của mỗi con người được hình thành, phát triển và biểu hiện trong quá trình sống và hoạt động của họ trong lòng xã hội loài người, trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Năng lực là điều kiện cần thiết để cá nhân thực hiện hoạt động có kết quả và năng lực cũng là kết quả của hoạt động. Năng lực của cá nhân được hình thành và phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó:+ Tư chất là điều kiện vật chất là tiền đề tự nhiên cần thiết cho sự hình thành và phát triển năng lực, nó có ảnh hưởng nhất định đến sự khác biệt về năng lực giữa người này với người khác. Tư chất không định hướng trước năng lực. Năng lực không nằm trong tư chất và không phải là tư chất. Có tư chất tốt mà không gặp hoàn cảnh thuận lợi và cá nhân không chịu hoạt động thì tư chất đó cũng không thể bộc lộ và dần bị thui chột.+ Sự phát triển năng lực của mỗi người chịu sự quy định của các điều kiện lịch sử xã hội, như trình độ phát triển kinh tế, trình độ văn hoá khoa học kĩ thuật, nền văn minh của nhân loại và dân tộc... Điều kiện xã hội của năng lực là những điều kiện sống cụ thể của cá nhân, đó là ảnh hưởng của gia đình, nhà trường, khu phố, làng xóm...+ Năng lực của cá nhân phụ thuộc vào sự phân công lao động xã hội, vào chế độ xã hội.+ Giáo dục nhà trường có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của thế hệ trẻ.+ Hoạt động tích cực của cá nhân giữ vai trò quyết định năng lực của họ.- Một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là hình thành năng lực cho học sinh. Việc phát hiện năng khiếu và bồi dưỡng nhân tài là một việc được quan tâm đặc biệt của các bậc cha mẹ, thầy cô và toàn xã hội. Do đó, việc phát hiện sớm và đúng những trẻ có năng khiếu là bước đầu tiên và cũng hết sức quan trọng trong việc bồi dưỡng nhân tài.
Câu hỏi ôn tập chương V1. Trình bày khái niệm năng lực và mối quan hệ giữa năng lực với các thuộc tính nhân cách khác.2. Phân tích mối quan hệ giữa năng lực tự nhiên và năng lực tự tạo trong quá trình phát triển tài năng.3. Phân tích điều kiện tự nhiên và xã hội của sự hình thành và phát triển năng lực. Lấy ví dụ cụ thể về các danh nhân để minh hoạ.4. Anh (chị) hiểu thế nào về vai trò của yếu tố tư chất trong quá trình hình thành và phát triển năng lực cá nhân? Từ đó đề xuất một số phương hướng phát triển năng khiếu và bồi dưỡng năng lực cho học sinh.
Created by AM Word2CHMBÀI TẬP THỰC HÀNH à Bài tập số 25. Căn cứ vào yêu cầu của mục a và b để trả lời câu hỏi.a. Những quan điểm nào trong số những quan điểm về nguồn gốc của năng lực (sự phát triển năng lực chỉ phụ thuộc vào các tố chất di truyền, sự phát triển năng lực chỉ phụ thuộc vào giáo dục, sự phát triển năng lực chỉ phụ thuộc vào các tố chất và giáo dục, với cùng các tố chất như nhau thì mức độ phát triển năng lực do giáo dục quyết đúng được thể hiện trong các ví dụ dưới đây?b. Những quan điểm nào là quan điểm duy tâm, những quan điểm nào là duy vật?- Ở nước Anh, mọi trẻ em 11 tuổi đều được trắc nghiệm về hệ số thông minh (IQ); sau đó người ta quyết định những trẻ này được vào loại trường cho phép nhận được một nền học vấn rộng rãi, còn những trẻ khác - vào các trường chuẩn bị cho trẻ bước vào lao động.- Nhà sư phạm Nhật Bản S. Suduki đào tạo các nhạc công vĩ cầm. Ông nhận mọi trẻ em vào trường cua mình, không có sự tuyển chọn. Giảng viên Khimkinxcoi của trường nhạc M. P. Kravetx (Liên Xô) cũng đã làm như vậy.- Nhà tâm lí học Xô viết nổi tiếng A. R. Luria đã quan sát sự phát triển của 2 trẻ mẫu giáo sinh đôi cùng trứng. Người ta đã dạy chúng chơi các vật liệu xây dựng một cách khác nhau. Kết quả là ở một em việc xây dưng phức tạp hơn, đa dạng hơn và độc đáo hơn.- Nhà tâm lí học Xô viết A. N. Leonchov, bằng cách luyện tập cá nhân, đã phục hồi quá trình "hát bên trong", đã bị phá huỷ ở những người không có tai âm nhạc, và do đó đã "làm cái tai" cho họ.- Người ta đã nhận xét rằng, có rất nhiều sinh viên học toán thành công và sáng tạo, đã vào trường đại học tổng hợp sau khi tốt nghiệp ở cùng một trường phổ thông, ở đó họ cùng học một thầy giáo toán học.- Có một số nhà sinh vật học cho rằng: cần phải giải quyết vấn đề tạo ra tư chất phong phú của con người bằng cách cấy nhân của các tế bào sinh dục đã chín.Bài tập số 26: Các ví dụ dưới đây nói về các năng lực kĩ xảo hoặc tri thức của con người. Hãy chỉ ra các dấu hiệu đặc trưng cho năng lực và xác định xem trong những trường hợp nào là nói về năng lực?- Chiều dài cánh tay của võ sĩ- Nguyện vọng có việc làm thường xuyên, khuynh hướng lao động.- Sự hiểu biết rộng về một lĩnh vực hoạt động nào đó.- Óc quan sát thể hiện ở chỗ, con người có thể nhìn thấy một cách có hệ thống nhiều điều quan trọng đối với công tác, ở trong các sự vật hiện tượng hay bộ mặt của con người.- Lực co của cơ tay.- Một học sinh trình bày rất tốt một bài thơ đã được luyện tập với thầy giáo.- Một người ghi nhớ nhanh chóng được hình dáng, màu sắc độ lớn của sự vật.- Một người nhanh chóng nắm được các cử động, tư thế, hành động mới.- Một học sinh kể lại rất hay một bài học đã học thuộc lòng.- Tính yêu cầu cao.- Một người phân biệt rất giỏi các mùi và ghi nhớ chúng một cách chính xác.Bài tập số 7: Dưới đây liệt kê những năng lực quan trọng đối với nghề dạy học. Hãy xác định xem những năng lực nào là những năng lực tương đối chung, còn những năng lực nào là những năng lực tương đối riêng?- Thái độ đối với công việc.- Trình độ cao của các năng lực trí tuệ.- Năng lực hiểu được trạng thái bên trong của người khác.- Những năng lực tổ chức.- Năng lực làm chủ bản thân, điều khiển các tình cảm của bản thân.- Năng lực dự kiến trước được những biến đổi trong hành vi và sự phát triển nhân cách của học sinh.- Năng lực truyền sang người khác thái độ của mình đối với công việc.Bài tập số 28: Phát hiện và hơn nữa là đánh giá năng lực của một người là công việc không dễ dàng. Trong lịch sử đã có không ít những trường hợp các nhà sư phạm không đánh giá chính xác năng lực của học sinh mình.Dưới đây nêu ra hai ví dụ có liên quan tới sự đánh giá về năng lực. Hãy xác định xem sai lầm nào đã phạm phải khi đánh giá về các năng lực, trong đó các khái niệm nào được đồng nhất với nhau?- Một thầy giáo vật lí đã viết về nhà toán học nổi tiếng người Pháp E. Galoa như sau: Cậu ta là người duy nhất trả lời kém đối với tôi. Cậu ta không biết một cái gì cả. Người ta nói rằng ở chàng thanh niên này có năng lực về toán học. Thật kì lạ! Căn cứ theo kết quả thi cử, thì cậu ta chẳng có một trí óc đặc biệt gì hay là cậu ta đã khéo léo che dấu những năng lực của mình, đến nỗi không thể nào phát hiện được những năng lực đó.- Hoạ sĩ Nga vĩ đại V. I. Xuricôp, sau hai lần thử thách mới vào được học viện nghệ thuật. Sau khi xem các bức tranh đưa trình giám định viên đã tuyên bố: Với những bức tranh như thế này thì cần phải cấm anh dù chỉ đi qua học viện thôi. Trong các cuộc thi tuyển vẽ bằng thạch cao. Xuricôp đã bị trượt và không được nhận vào học viện.Ông liền vào trường học vẽ và sau 3 tháng đã qua được năm thứ ba của trường hội hoạ. Sau đó các thầy dạy đã nhận ông vào học viện.Bài tập số 29: Người ta đã tiến hành thực nghiệm dưới đây để nghiên cứu năng lực sư phạm:Người ta yêu cầu học sinh trả lời một loạt câu hỏi về các môn học mà không có các giáo viên của mình. Sau đó qua trò chuyện với các giáo viên, người ta cho giáo viên biết những câu trả lời nào do học sinh đưa ra. Thì ra, những giáo viên này dạy giỏi ở trường thì phát biểu trung bình hơn 80% các kết luận đúng về các câu trả lời của học sinh, còn những thầy giáo dạy chưa giỏi - hơn 40%.Phẩm chất nào của các năng lực sư phạm được thể hiện đầy đủ nhất trong thực nghiệm này? Nó có ý nghĩa như thế nào đối với hoạt động của người thầy giáo?
Created by AM Word2CHM
Bạn đang đọc truyện trên: LoveTruyen.Me