Mật Mã Phù Thủy - All Souls Tập 1 -Deborah Harkness
Chương 18
Ysabeau đứng trên lối vào tòa lâu đài đồ sộ của bà, vẻ vương giả và băng giá, bà trừng mắt nhìn cậu con trai ma cà rồng của mình khi chúng tôi leo lên những bậc cầu thang.Matthew dừng hẳn lại để hôn nhẹ lên cả hai má của bà. "Chúng ta sẽ vào trong chứ, hay mẹ muốn tiếp tục màn chào hỏi ở ngoài này?"Mẹ anh bước lùi lại để hai chúng tôi đi qua. Tôi cảm nhận được cái nhìn trừng trừng giận dữ của bà và một mùi gì đó gợi nhớ đến mùi ca-ra-men và so-da vị thổ phục linh. Chúng tôi đi xuyên qua một hành lang ngắn, tối tăm, với những mũi thương sắp thành một hàng chẳng có chút mỹ quan tẹo nào, chỉ thẳng vào đầu khách. Chúng tôi đi vào một căn phòng có trần cao và những bức tường rõ ràng được sơn vẽ bởi một họa sĩ nào đó rất giàu tưởng tượng, phản ánh về một quá khứ trung cổ chưa bao giờ có. Những con sư tử, hoa bách hợp, một con rắn miệng ngậm đuôi, cùng những vỏ sò được sơn vẽ trên tường trắng. Phía cuối phòng là một cầu thang xoáy dẫn lên đỉnh của một trong số các tháp canh.Toàn thân tôi phải đối mặt với tổng lực từ cái nhìn chòng chọc của Ysabeau. Mẹ của Matthew là hiện thân của vẻ thanh lịch khủng khiếp dường như được nuôi dưỡng từ trong xương tủy của phụ nữ Pháp. Giống như cậu con trai – anh chàng hóa ra có vẻ hơi già so với mẹ - bà cũng mặc những tông màu đơn sắc rất riêng, nó làm giảm đi tối thiểu vẻ xanh xao thiếu tự nhiên ở bà. Màu sắc yêu thích của Ysabeau là các tông trải từ màu kem cho tới nâu nhạt. Mỗi centimet trên bộ trang phục bà mặc đều đắt giá và đơn giản, từ mũi đôi giày da mềm màu vàng sẫm cho tới đôi bông tai đung đưa trên tai bà. Những mảng màu ngọc lục bảo lạnh lẽo nổi bật bao quanh đôi đồng tử đen láy, và hàng mi dài phủ bóng lên hai gò má càng tôn thêm những đường nét hoàn hảo của bà, khiến làn da vốn đã trắng nõn và láng mịn càng trở nên sáng chói. Mái tóc bà óng mịn như mật ong, một màu hoàng kim như lụa đổ tràn xuống từ đỉnh đầu và được kết lại thành một búi tóc nặng nề, trễ thấp ở dưới."Có lẽ con đã thể hiện rõ một sự suy xét cân nhắc nào đó rồi, Matthew." Cách phát âm của bà được làm mềm đi ở tên cậu con trai, khiến nó nghe có vẻ thật cổ xưa. Giống tất cả các ma cà rồng, bà có chất giọng du dương, quyến rũ, nhưng ở bà nó còn nghe như tiếng chuông vang xa xa, trong trẻo và sâu lắng."E ngại lời bàn ra tán vào ư, Maman? Con nghĩ mẹ đã tự hào vì bản thân mình là một người có quan điểm cực đoan chứ?" Giọng Matthew pha lẫn cả sự chiều chuộng lẫn nôn nóng. Anh ném chùm chìa khóa lên cái bàn gần đó. Chúng trượt từ bên này sang bên kia rồi kết thúc một cách hoàn hảo bằng một tiếng cách va chạm vào đế cái bát sứ Trung quốc."Mẹ chưa bao giờ là một người cực đoan cả!" Ysabeau tỏ vẻ ghê tởm. "Sự thay đổi này được đánh giá rất cao đấy."Bà quay sang săm soi tôi từ đầu đến chân. Khuôn miệng hoàn hảo của bà mím chặt lại.Bà không thích cái bà nhìn thấy – không nghi ngờ gì nữa. Tôi thử ngắm nhìn mình qua đôi mắt của bà – mái tóc màu cát không dày cũng chẳng được chăm sóc tử tế, những vết tàn nhang lấm tấm do ở ngoài trời quá nhiều, cái mũi quá dài so với phần còn lại của khuôn mặt. Đôi mắt là nét nổi bật nhất, những chúng chẳng thể tạo nên được khiếu thẩm mỹ về thời trang của tôi. Bên cạnh vẻ trang nhã của bà và bản chất điềm tĩnh thường trực của Matthew, tôi như một chú chuột quê mùa vụng về. Tôi kéo đường viền áo khoác bằng bàn tay còn rảnh, vui mừng khi thấy không có dấu hiệu nào của phép thuật trên các đầu ngón tay mình, và thầm mong rằng cũng sẽ không có dấu hiệu nào của cái "ánh sáng lờ mờ" thần chết mà Matthew từng nhắc tới."Maman, đây là Diana Bishop. Diana, đây là mẹ anh, Ysabeau de Clermont." Các âm tiết được anh uốn lưỡi kiểu cách.Hai cánh mũi của Ysabeau hơi phập phồng. "Mẹ thật sự không thích cái mùi của phù thủy." Tiếng Anh của bà hoàn hảo không chê vào đâu được, ánh mắt sáng rực rỡ của bà gắn chặt vào mắt tôi. "Cô ta có vị ngọt ngào và xanh mướt kinh khủng, như mùa xuân ấy."Matthew tuôn ra một tràng thứ tiếng gì đó thật khó hiểu, nghe như một sự pha trộn giữa tiếng Pháp, Tây Ban Nha, và Latin. Anh cố thấp giọng, nhưng không che giấu được cơn giận dữ trong đó."Ca suffit *," Ysabeau vặn lại bằng một thứ tiếng Pháp rõ ràng rồi đặt một bàn tay lên ngang cổ họng. Tôi nuốt khan và bất giác với tay lên cổ chiếc áo khoác của mình.
* Ça suffit: Thế là đủ rồi."Diana." Ysabeau nói với một âm e kéo dài chứ không phải là i và nhấn mạnh vào âm tiết đầu chứ không phải là âm thứ hai. Bà xòe một bàn tay trắng muốt lạnh giá ra và tôi đưa tay nắm hờ mấy ngón tay của bà. Matthew túm lấy tay trái tôi, và trong một khoảnh khắc chúng tôi đã tạo nên một chuỗi mắt xích kỳ lạ của ma cà rồng và phù thủy. "Encantada *."
* encantada (tiếng Tây Ban Nha): rất vui được gặp bạn"Bà rất vui được gặp em," Matthew nói, dịch lại cho tôi và bắn một tia nhìn cảnh cáo về phía bà mẹ."Đúng, đúng vậy," Ysabeau sốt ruột nói, quay lại phía con trai. "Đương nhiên cô ấy chỉ nói được tiếng Anh và tiếng Pháp mới thôi. Động vật máu nóng hiện đại thật quá kém giáo dục."Một bà lão người mập mạp với làn da trắng như tuyết và mái tóc đen dày rậm một cách phi lý kết thành những bím tóc rối beng bao quanh đầu bước vào tiền sảnh, hai cánh tay dang rộng ra. "Matthew!" bà la lên. "Cossi anatz?" (How are you?)"Va plan, mercés. E tu?" (I'm fine, thank you. And you? )Matthew ôm lấy bà và hôn lên cả hai bên má bà."Aital aital," ( So so...) bà đáp, nắm lấy khuỷu tay mình rồi tỏ vẻ giận dữMatthew thì thầm vẻ cảm thông, còn Ysabeau thì ngẩng lên nhìn trần nhà để tìm kiếm sự giải thoát khỏi cảnh tượng xúc động này."Marthe, đây là bạn tôi Diana," anh nói, vừa kéo tôi tới trước.Marthe cũng là ma cà rồng, một trong số những ma cà rồng già nhất mà tôi từng thấy. Bà ấy chắc phải ở vào tuổi sáu mươi khi được tái sinh, và dù mái tóc bà màu đen nhưng tuổi của bà thì không lầm vào đâu được. Những nếp nhăn ngang dọc khắp khuôn mặt bà, các khớp xương trên hai tay bà quá xương xẩu đến nỗi có vẻ ngay cả máu của ma cà rồng cũng không thể duỗi thẳng chúng ra được."Chào mừng, Diana," bà lão vừa nói bằng một chất giọng khàn khàn vẻ kiên định mà cũng thật đường mật, vừa nhìn sâu vào mắt tôi. Bà gật đầu với Matthew và với tới bàn tay tôi, hai cánh mũi phập phồng. "Elle est une puissante sorcière," bà nói với Matthew, giọng khen ngợi."Bà nói em là một phù thủy quyền năng," Matthew giải thích. Sự gần gũi của anh, cách nào đó đã làm giảm bớt đi cảm giác lo lắng mang tính bản năng của tôi khi có một ma cà rồng hít ngửi mình.Không biết phải phản ứng thế nào cho đúng cách của người Pháp, tôi chỉ đành mỉm cười yếu ớt với Marthe và thầm hy vọng như thế là ổn"Em kiệt sức rồi," Matthew nói, nháy mắt với tôi. Anh mau lẹ hỏi hai nữ ma cà rồng bằng một thứ tiếng lạ lùng. Kết quả là thật nhiều những cái chỉ trỏ, đảo mắt, mấy điệu bộ cường điệu và những tiếng thở dài. Khi Ysabeau nhắc đến tên Louisa, Matthew chằm chằm nhìn mẹ anh, cơn tức giận nổi lên trở lại. Giọng anh chuyển sang âm sắc bằng bằng, cộc lốc khi trả lời bà mẹ.Ysabeau nhún vai. "Dĩ nhiên rồi, Matthew," bà thì thầm với vẻ giả bộ thấy rõ."Chúng mình đi sắp xếp cho em nào." Giọng Matthew ấm áp khi anh nói với tôi."Tôi sẽ mang đồ ăn và rượu đến," Marthe nói bẳng thứ tiếng Anh ngắc ngứ."Cảm ơn bà," tôi nói. "Và cảm ơn bà nữa, Ysabeau, vì đã cho phép tôi ở trong nhà của bà." Ysabeau khịt mũi và nhe răng. Tôi hy vọng đó là một nụ cười nhưng lại sợ rằng không phải thế."Cả nước nữa, Marthe ạ," Matthew bổ sung thêm, "Ồ, và thức ăn đang trên đường đến đây nhỉ?""Một số đã đến rồi," mẹ anh chua chát nói. "Lá cây. Hàng bao tải rau và trứng. Con thật rất dở khi yêu cầu bọn họ đánh xe chở những thứ đó đến vùng nông thôn này.""Diana cần ăn, Maman. Con không tưởng tượng được là mẹ có nhiều đồ ăn thức uống trong ngôi nhà này đâu." Sợi cương dài của lòng kiên nhẫn ở Matthew đang tuột ra dần từ các sự kiện tối qua và bây giờ là cuộc trở về nhà lạnh nhạt của anh."Ta cần máu tươi, nhưng ta cũng không bắt Victoire và Alain tìm kiếm nó ở Paris và đem về giữa đêm hôm như thế." Ysabeau trông cực kỳ thỏa mãn và hài lòng với chính mình khi hai đầu gối tôi run lên.Matthew trút ra một hơi thở dữ dội, bàn tay anh đỡ dưới khuỷu tay tôi để giữ cho tôi đứng vững. "Marthe," anh yêu cầu, thể hiện rõ sự phớt lờ với Ysabeau, "bà có thể mang trứng, bánh mỳ nướng cùng một ít trà lên cho Diana không?"Marthe đưa mắt nhìn Ysabeau rồi quay sang Matthew như thể bà đang ở sân trung tâm của Wimbledon. Bà lão bật cười khúc khích. "Òc," bà đáp kèm theo một cái gật đầu vui vẻ."Chúng con sẽ gặp lại hai người vào bữa tối," Matthew điềm tĩnh nói. Tôi cảm thấy có bốn mảnh băng găm vào hai bờ vai mình khi hai nữ ma cà rồng nhìn theo chúng tôi. Marthe nói điều đó với Ysabeau làm bà mẹ Matthew phải khịt mũi tỏ vẻ khó chịu còn Matthew thì nở nụ cười rạng rỡ."Marthe nói gì thế anh?" Tôi thì thầm, rồi chợt muộn màng nhớ ra là sẽ chẳng có cuộc trò chuyện nào, dù thì thầm hay to tiếng, mà không bị mọi người trong ngôi nhà này nghe lỏm được."Bà ấy nói chúng mình rất đẹp đôi.""Em không muốn Ysabeau tức giận với em trong suốt thời gian chúng ta ở đây đâu.""Đừng để ý quá tới bà," anh bình thản nói. "Mẹ anh vốn khẩu xà tâm phật mà."Chúng tôi đi qua hành lang dẫn vào một căn phòng dài với những bộ bàn ghế được sắp xếp phân loại theo nhiều phong cách và thời kỳ khác nhau. Có hai chiếc lò sưởi, và hai hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng lấp lánh cưỡi ngựa đấu thương qua đầu nhau, những cây thương sáng choang bắt chéo gọn ghẽ mà không gây thương tích cho ai cả. Bức bích họa rõ ràng được vẽ bởi cùng một con người nhiệt tình có con mắt thẩm mỹ sướt mướt đã trang trí đại sảnh. Một cánh cửa đôi dẫn tới căn phòng khác, căn phòng này chất toàn những tủ sách."Đó là thư viện ư?" tôi hỏi, ngay lập tức quên mất thái độ thù địch của Ysabeau. "Em có thể xem bản in cuốn Aurora Consurgens của anh bây giờ không?""Để sau đã," Matthew dứt khoát nói. "Em phải ăn thứ gì đó rồi ngủ đi đã."Anh dẫn đường lên một cầu thang quanh co khác, rồi làm hoa tiêu qua một mê cung đồ gia dụng cổ xưa với vẻ thoải mái của người có kinh nghiệm lâu năm. Còn tôi đi qua mê cung này với vẻ ngập ngừng thăm dò hơn, hai đùi tôi xước vào mặt phía trước của mấy cái tủ com mốt và đụng vào một cái lọ sứ cao làm nó lắc lư. Cuối cùng khi chúng tôi tới chân một cầu thang khác, Matthew dừng lại."Còn phải leo lâu đây, em sẽ bị mệt. Em có cần anh bế không?""Không," tôi nổi đóa. "Anh sẽ không quăng em qua vai giống như những tay hiệp sĩ thời trung cổ xoáy đi các chiến lợi phẩm từ trận đánh được đâu."Matthew mím chặt môi lại, mắt long lanh."Anh không dám cười nhạo em đâu."Thế là anh phá lên cười, âm thanh vang dội vào các bức tường đá như thể có cả một đội ma cà rồng vui nhộn đang đứng trên cầu thang. Rốt cuộc đây chính xác là nơi các hiệp sĩ sẽ bồng các quý cô lên gác. Nhưng tôi không định trở thành một trong số họ.Đến bậc thứ mười lăm thì hai mạng sườn của tôi đã căng cứng vì gắng sức. Các bậc đá mòn vẹt của tòa tháp này không phải được tạo ra cho những đôi chân bình thường – rõ ràng chúng được thiết kế để dành cho các ma cà rồng như Matthew, những sinh vật cao trên một mét tám, cực kỳ nhanh nhẹn hoặc có cả hai yếu tố trên. Tôi nghiến răng và tiếp tục leo. Đến chỗ cong cuối cùng của cầu thang, một căn phòng đột ngột mở ra."Ôi." Bàn tay tôi vụt đưa lên miệng trong sự kinh ngạcTôi chẳng cần được bảo cho mới biết căn phòng này là của ai. Nó là của Matthew, hoàn toàn.Chúng tôi đang ở trong tòa tháp tròn duyên dáng của lâu đài - một ngọn tháp vẫn giữ nguyên phần mái bằng đồng đỏ hình nón trơn nhẵn và án ngữ sau lưng tòa nhà chính đồ sộ. Hàng cửa sổ ca, hẹp làm nổi bật các bức tường, và những ô cửa lợp chì để hắt vào ánh sáng và sắc màu mùa thu từ những cánh đồng và cây cối ngoài kia.Căn phòng hình tròn, và những đường cong duyên dáng của nó rất hài hòa với những đường thẳng hiếm hoi của những tủ sách cao. Một lò sưởi lớn được đặt vuông vức với các bức tường, đắp tựa vào cấu trúc trung tâm của tòa lâu đài. Cái lò sưởi này đã thoát khỏi sự chú ý của người họa sỹ vẽ bích họa giàu tưởng tượng kia một cách kỳ diệu. Những cái tay ghế và trường kỷ, bàn và gối quỳ, hầu như đều bị bao phủ trong màu xanh lá, nâu và vàng kim. Bất chấp kích thước của căn phòng và các phần nới rộng ra thênh thang bằng đá xám, tổng thể của nó vẫn toát lên một vẻ ấm cúng dễ chịu.Hầu hết những món đồ hấp dẫn của căn phòng đều là những thứ Matthew đã lựa chọn giữ lại từ rất nhiều cuộc sống mà anh đã trải qua. Một bức tranh của Vermeer dựa vào một cái giá sách bên cạnh một bức tường nhà chưa tô trát. Nó khá lạ - không phải là một trong mấy bức sơn dầu nổi tiếng của vị họa sĩ này. Bức tranh này trông oai nghiêm khủng khiếp giống y Matthew. Một thanh mã tấu dài và nặng đến nỗi chẳng ai ngoài một ma cà rồng có thể cầm nó mà treo lên phía trên lò sưởi cả, và một bộ áo giáp có kích thước của Matthew đứng trong góc phòng. Đối diện là một bộ xương người trông có vẻ cổ xưa treo trên một cái khung gỗ, các khớp xương được gắn với nhau bởi một thứ gì đó trông như dây đàn piano. Trên chiếc bàn bên cạnh là hai cái kính hiển vi, cả hai đều được làm từ thế kỷ mười bảy nếu tôi không nhầm. Một mô hình cây thánh giá có hình Chúa Jesus được trang trí công phu nạm đá màu đỏ, xanh lá và xanh da trời, được đặt vào một hốc tường cùng với bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng ngà voi đẹp lộng lẫy.Những bông tuyết của Matthew lại phảng phất lướt qua mặt tôi khi anh ngắm nhìn tôi xem xét tỉ mỉ những thứ thuộc về anh."Một viện bảo tàng Matthew," tôi khẽ nói, biết rằng mỗi món đồ đều có một câu chuyện để kể."Chỉ là phòng làm việc của anh thôi mà." "Ở đâu anh..." tôi bắt đầu, tay chỉ vào mấy cái kính hiển vi."Để sau đi," anh lại nói, "Em còn hơn ba mươi bậc thang nữa để leo cơ đấy."Matthew dẫn tôi qua phía kia căn phòng tới một chiếc cầu thang thứ hai. Cầu thang này cũng vậy, cong vút lên tận thiên đường. Sau ba mươi bậc thang chậm chạp nữa, tôi đã đứng trước một căn phòng hình tròn khác bị một chiếc giường bốn cọc khổng lồ bằng gỗ cây óc chó thống trị hoàn toàn cùng với màn và những tấm rèm treo nặng nề. Phía trên cao là những xà nhà và cột chống lộ rõ để giữ cho phần đỉnh tháp bằng đồng đỏ ở đúng chỗ. Một chiếc bàn được đấy sát vào tường, lò sưởi được xây chìm vào một bức tường khác, và mấy chiếc ghế bành thoải mái được sắp xếp phía trước chiếc lò. Đối diện, một cánh cửa hé mở để lộ cái bồn tắm khổng lồ."Nó giống như một cái tổ chim ưng ấy," tôi nói, ngó ra ngoài cửa sổ. Matthew đã ngắm nhìn khung cảnh này qua những ô cửa sổ này từ thời Trung Cổ. Tôi băn khoăn, trong thoáng chốc, về những người phụ nữ khác mà anh đã đưa đến đây trước tôi. Tôi chắc chắn mình không phải là người đầu tiên, nhưng tôi không nghĩ là có nhiều người khác. Lâu đài này có một sự riêng tư thật mãnh liệt.Matthew tiến đến phía sau và nhìn qua vai tôi. "Em bằng lòng chứ?" Hơi thở của anh nhè nhẹ phả vào tai tôi. Tôi gật đầu."Bao lâu rồi?" Tôi hỏi, không thể kiềm nén được."Tòa tháp này ư?" Anh hỏi. "Khoảng bảy trăm năm." "Còn ngôi làng ấy? Họ có biết về gia đình anh không?""Có. Giống như phù thủy, ma cà rồng được an toàn hơn khi họ tách biệt với cộng đồng dân cư sinh sống, những người biết về họ nhưng không thắc mắc quá nhiều."Tổ tiên của nhà Bishop đã sống ở Madison mà không hề có bất kỳ ai gây chuyện om sòm để bị chú ý. Giống như Peter Knox, chúng tôi đang giấu mình trong vẻ ngoài bình dị."Cảm ơn anh vì đã đưa em tới Sept-Tours," tôi nói. "Em thật sự cảm thấy an toàn hơn ở Oxford." Không kể đến Ysabeau."Cảm ơn vì em đã dũng cảm đương đầu với mẹ anh." Matthew khúc khích cười như thể anh nghe thấy được cả những lời tôi không nói ra. Mùi hương cẩm chướng đặc trưng thoảng qua giọng anh. "Bà bảo bọc quá mức, giống như hầu hết các bậc phụ huynh.""Em cảm thấy mình thật ngớ ngấn – và luộm thuộm nữa. Em không mang theo một thứ gì để mặc cho phù hợp với chuẩn mực của mẹ anh." Tôi cắn môi, trán nhăn lại."Coco Chanel cũng chưa đáp ứng được chuẩn mực của Ysabeau đâu. Em có lẽ nên nhắm đến cái gì cao hơn một chút."Tôi bật cười và quay người lại, tìm kiếm ánh mắt anh. Khi hai ánh mắt gặp nhau, tôi như ngừng thở. Ánh nhìn đắm đuối của Matthew ngưng đọng lại nơi mắt tôi, nấn ná xuống hai má và cuối cùng là bờ môi tôi. Bàn tay anh nâng cằm tôi lên."Em thật quá sống động," anh nói khàn khàn. "Đáng lẽ em nên ở cùng với một người đàn ông trẻ hơn nhiều, thật nhiều."Tôi nhón chân lên. Anh nghiêng đầu cúi xuống. Trước khi môi chúng tôi kịp chạm nhau thì có tiếng khay lách cách trên bàn."Vos etz arbres e branca," (cô ấy là một phù thủy quyền năng) Marthe ngâm nga hát, ranh mãnh liếc nhìn Matthew.Anh bật cười và hát đối lại bằng một giọng nam trung trong trẻo, "Onfruitz de gaug s'asazona."(= You are the tree and branch, where delight's fruit ripens.- Bạn là cây và cành, nơi quả chín đang vào mùa.""Đó là ngôn ngữ gì thế?" Tôi hỏi, hạ chân xuống và đi theo Matthew tới chỗ lò sưởi."Tiếng nói cổ xưa đấy," Marthe đáp."Occitan." (vẫn được sử dụng tại một số thị trấn nhỏ ở đây nơi tôi sống, Catalonia và Aragón, và ở miền nam nước Pháp ) Matthew gỡ bỏ lớp giấy bạc bọc đĩa trứng. Mùi thức ăn nóng hổi bay khắp phòng. "Marthe quyết định ngâm một bài thơ trước khi em ngồi vào bàn ăn đấy."Marthe cười giòn và kéo cái khăn lau giắt ở thắt lưng đánh vào cổ tay Matthew. Anh thả tờ giấy bọc ra và kéo ghế ngồi."Tới đây, tới đây nào," bà lão nói, ra hiệu về phía cái ghế đối diện với anh. "Ngồi đi, ăn đi nào." Tôi làm theo. Marthe rót cho Matthew một ly vang từ chiếc bình thủy tinh cao quai bạc."Mercés," anh thì thầm nói, mũi ngay lập tức hướng về phía cái lyMột chiếc bình tương tự nữa đựng nước đá lạnh, và Marthe rót nó vào một cái ly khác rồi đưa cho tôi. Bà rót ra một tách trà nghi ngút khói, và tôi lập tức nhận ra nó đến từ cửa hiệu Manage Freres ở Paris. Rõ ràng Matthew đã tiến hành khám xét tủ ấm chén trong khi tôi ngủ tối qua và cụ thể hóa các danh sách mua sắm của anh. Marthe rót một lớp kem dày vào tách trà trước khi Matthew kịp ngăn bà lại, tôi bèn lừ mắt nhìn anh cảnh cáo. Về điểm này tôi cần có đồng minh. Hơn nữa, tôi đang quá khát nên chẳng quan tâm lắm. Anh ngoan ngoãn ngả người ra sau ghế, nhấm nháp ly rượu vang của mình.Marthe lấy ra từ chiếc khay của bà nhiều thứ khác nữa - một bộ dao dĩa bằng bạc, muối, hạt tiêu, bơ, mứt; bánh mỳ nướng và món trứng ốp lết vàng rộm rắc gia vị thảo mộc tươi."Merci, Marthe," tôi nói với niềm biết ơn tự đáy lòng."Ăn đi!" bà ra lệnh, lần này hướng chiếc khăn về phía tôi.Marthe ngắm nhìn vẻ thỏa mãn khi tôi nhiệt tình cắn những miếng đầu tiên. Thế rồi bà khịt mũi đánh hơi trong không khí. Bà cau mày và hướng ánh nhìn bực tức về phía Matthew trước khi sải bước tiến tới chỗ lò sưởi. Một que diêm được đánh lên, củi khô bắt đầu kêu lách tách."Marthe," Matthew phản đối, đứng dậy cùng với ly rượu vang, "tôi có thể làm việc đó mà.""Cô ấy đang lạnh," Marthế cằn nhằn, rõ ràng là bực mình rằng anh đã không làm việc này trước khi ngồi vào bàn, "và cậu thì đang khát. Tôi sẽ nhóm lửa lên,"Trong vài phút ngọn lửa đã cháy bùng lên. Mặc dù chẳng có ngọn lửa nào có thể làm căn phòng to lớn này nóng lên ngay lập tức, nhưng nó cũng xua đi được giá lạnh trong không khí. Marthe xoa hai bàn tay vào nhau và đứng dậy. "Cô ấy phải đi ngủ. Tôi có thể ngửi thấy mùi lo sợ ở cô ấy.""Cô ấy sẽ đi ngủ khi đã ăn xong,"Matthew đáp, giơ tay phải lên vẻ trịnh trọng cam kết. Marthe nhìn anh thật lâu và lắc lắc một ngón tay về phía anh như thể anh chàng mới 15 chứ không phải là 1500 tuổi. Cuối cùng cái vẻ ngây thơ vô tội của anh đã thuyết phục được bà. Bà rời khỏi phòng, đôi bàn chân cổ xưa di chuyển xuống các bậc thang đẩy thách thức kia một cách chắc chắn."Occitan là ngôn ngữ của những người hát rong từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII, có đúng không?" tôi hỏi sau khi Marthe đã rời đi. Chàng ma cà rồng gật đầu. "Em không biết là nó được nói ở vùng phía Bắc xa xôi này đấy.""Chúng ta không phải vùng phía Bắc xa xôi đâu," Matthew cười đáp. "Đã có thời Paris chẳng hơn gì một thị trấn giáp ranh biên giới cả. Thế nên hầu hết người ta đều nói tiếng Occitan. Nhưng những ngọn đồi đã ngăn giữ người phương Bắc - và ngôn ngữ của họ trở nên xa xôi. Thậm chí ngay cả bây giờ người dân ở đây vẫn cảnh giác đề phòng với những người ở bên ngoài đến.""Những lời ấy có nghĩa là gì?" tôi hỏi."Em là cây và cành lá," Matthew nói, mắt không rời những đường cắt ngang dọc trên cảnh vùng thôn quê hiển hiện qua ô cửa sổ gần nhất, "nơi quả khoái lạc chín muồi." Rồi anh lắc đầu rầu rĩ. "Marthe sẽ ngâm nga bài hát này cả buổi chiều và làm Ysabeau phát điên lên mất."Ngọn lửa tiếp tục lan ra sưởi ấm căn phòng, hơi nóng khiến tôi mơ màng ngủ. Đến khi món trứng hết thì mắt tôi đã díu lại.Tôi đang ngáp nửa chừng thì Matthew kéo tôi ra khỏi ghế. Anh bế thốc tôi trên hai cánh tay, đôi bàn chân tôi đung đưa giữa không trung. Tôi bắt đầu phản đối."Đủ rồi," anh nói. "Em chỉ còn vừa đủ sức ngồi thẳng dậy được thôi, chứ đừng nói gì đến chuyện đi bộ."Rồi anh nhẹ nhàng đặt tôi xuống cuối giường và kéo khăn phủ ra. Lớp dra giường trắng như tuyết trông thật tinh tươm và mời gọi. Tôi thả đầu lên núi gối đang tựa sẵn vào mấy hình chạm khắc quả óc chó rối rắm nơi đầu giường."Ngủ đi." Matthew cầm mấy tấm màn và kéo mạnh."Em không dám chắc là mình có thể ngủ được," tôi nói khó nhọc giữa một cái ngáp khác. "Em không giỏi việc ngủ ngày thế này.""Mọi biểu hiện lại cho thấy điều ngược lại đấy," anh nói cộc lốc. "Bây giờ em đang ở Pháp rồi. Em không cần phải cố gắng gì cả. Anh sẽ ở lầu dưới. Hãy gọi nếu em cần bất cứ thứ gì."Với một cầu thang dẫn từ sảnh lên tới phòng làm việc của anh và một cầu thang khác từ phía đối diện dẫn lên phòng ngủ, không ai có thể lên căn phòng này mà không đi ngang qua chỗ Matthew. Các căn phòng này được thiết kế như thể anh ấy cần bảo vệ bản thân khỏi chính gia đình mình vậy.Một câu hỏi dâng lên trên môi tôi, nhưng anh đã thả màn và giật mạnh lần cuối cho chúng khép sát vào nhau khiến tôi phải thực sự im lặng. Những tấm màn nặng nề của chiếc giường ngăn không cho ánh sáng và cả bụi bặm xuyên qua. Thư giãn trong tấm đệm êm ái, hơi ấm của cơ thể tôi khuếch tán lên thêm nhờ những lớp chăn mềm mại trên giường, và tôi mau chóng chìm vào giấc ngủ.Tôi thức giấc bởi tiếng sột soạt giở trang sách và ngồi thẳng dậy, cố mường tượng xem tại sao ai lại đóng kín tôi vào một chiếc hộp vải như thế này. Thế rồi tôi nhớ ra.Pháp. Matthew. Ở nhà của anh ấy."Matthew?" tôi khẽ gọi.Anh vén màn nhìn xuống và mỉm cười. Phía sau anh, nến đã được thắp lên – hàng tá nến. Vài ngọn được đặt vào chân đế quanh phòng, những ngọn khác thì đứng trong các đài nến trang trí cầu kỳ đặt trên sàn nhà và mấy chiếc bàn gần đó."Đối với người nào đó không ngủ ngày thì em đã ngủ khá là ngon lành đấy," anh nói với vẻ hài lòng. Trong chừng mực anh lo lắng thì chuyến đi đến Pháp có vẻ đã thành công."Mấy giờ rồi anh?""Anh sẽ kiếm cho em một cái đồng hồ đeo tay nếu em cứ suốt ngày hỏi anh câu đó." Matthew liếc nhìn chiếc Cartier cũ của anh. "Gần hai giờ chiều rồi. Marthe có lẽ sẽ lên đây bất cứ khi nào để mang trà cho em. Em có muốn tắm và thay đồ không?"Ý nghĩ về cái vòi hoa sen nóng ấm khiến tôi háo hức hất tung chăn ra. "Vâng, làm ơn!"Matthew né người tránh hai chân tôi bay vọt xuống giường và giúp tôi đứng xuống sàn nhà, cái giường cao hơn là tôi tưởng. Sàn phòng còn lạnh nữa, những phiến đá lát sàn chọc vào hai bàn chân trần của tôi."Túi xách của em ở trong phòng tắm, máy tính ở dưới lầu trong phòng làm việc của anh, và có khăn tắm sạch đấy. Em tranh thủ đi." Anh nhìn theo khi tôi tập tễnh đi vào phòng tắm."Đây là cung điện à!" tôi thốt lên. Một bồn tắm khổng lổ màu trắng chễm chệ giữa phòng giữa hai ô cửa sổ, và một cái ghế băng dài đỡ lấy túi đồ lề Yale xiêu vẹo của tôi. Trong góc phía xa, một đầu vòi tắm hoa sen được lắp đặt dính vào tường.Tôi bắt đầu mở nước, đinh ninh phải đợi một lúc lâu cho nó nóng lên. Kỳ diệu thay, hơi nước lập tức bao trùm lấy tôi, hương mật ong và xuân đào từ bánh xà bông lập tức xua tan cảm giác căng thẳng của 24 giờ qua.Khi các cơ bắp đã được thư giãn, tôi mặc vào chiếc quần jean và áo len cổ lọ, rồi đi một đôi tất ngắn. Không có ổ cắm để dùng máy sấy tóc, tôi dùng khăn tắm lau chà mạnh mái tóc và chải lược trước khi túm buộc ra sau thành một cái đuôi ngựa."Marthe đã mang trà lên rồi," Matthew nói khi tôi quay trở lại phòng ngủ, liếc nhanh qua ấm và tách trà đặt trên bàn. "Muốn anh rót cho em một ít không?"Tôi thở dài khoan khoái khi chất lỏng dễ chịu ấy trôi xuống cổ họng mình. "Khi nào thì em được xem cuốn Aurora?""Khi anh chắc chắn em sẽ không mất hút vào trong thư viện như cái kiểu của em. Sẵn sàng cho một chuyến tham quan học tập chưa?""Rồi ạ." Tôi trượt xuống rón rén đi trên đôi tất trở vào phòng tắm để lấy cái áo len. Trong khi tôi chạy lòng vòng, Matthew kiên nhẫn đứng bên đầu cầu thang chờ đợi."Chúng mình có nên mang ấm trà xuống không?" tôi hỏi, nhón chân dừng lại."Không, bà lão sẽ nổi đóa lên mất nếu anh để cho khách chạm vào dù chỉ một cái đĩa. Đợi 24 giờ nữa hãy giúp đỡ Marthe."Matthew lướt xuống cầu thang như thể anh có thể bịt mắt mà đi trên mặt đất bằng vậy. Tôi thì lần mò, dò dẫm những ngón tay dọc theo bức tường đá.Khi chúng tôi xuống tới phòng làm việc, anh chỉ chiếc máy tính của tôi, nó đã được cắm điện và nằm yên trên chiếc bàn bên cửa sổ, rồi chúng tôi xuống phòng khách. Marthe đã có mặt ở đó, một ngọn lửa ấm áp đang cháy tí tách trong lò sưởi, gửi mùi khói gỗ bay đi khắp phòng. Tôi túm lấy Matthew."Thư viện," tôi nói. "Chuyến thăm quan cần bắt đầu từ chỗ đó.Lại một căn phòng khác được chất đầy hết năm này qua năm khác những món đồ nội thất và các đồ trang trí tạp nham không mấy giá trị. Một cái ghế gấp Savonarola của Ý nhô lên bên cạnh chiếc bàn viết kiểu Pháp, trong khi một chiếc bàn bằng gỗ sồi rộng thênh thang vào khoảng năm 1700 phô bày những cái ngăn kéo trông như thể chúng đến từ một viện bảo tàng thời Victoria. Bất chấp sự thiếu hài hòa, căn phòng vẫn được liên kết với nhau bởi hàng dặm dài những cuốn sách bìa bọc da trên các giá sách làm từ gỗ cây óc chó và một tấm thảm Aubusson khổng lồ màu vàng nhạt, xanh dương và nâu.Như hầu hết các thư viện cổ, sách ở đây được bày trên giá theo kích cỡ. Có những tập bản thảo buộc dây da, để trên giá với gáy sách nằm trong và ngoài những cái móc trang trí, các tít được viết bằng mực trên rìa trước của giấy da cừu. Có những cuốn sách bé tí xíu của thời kỳ in đầu tiên và cỡ bỏ túi nằm thành hàng gọn ghẽ trên một giá sách, tạo thành cầu nối lịch sử từ các bản thảo in từ năm 1450 tới ngày nay. Một số lượng những ấn bản đầu tiên hiếm có thời hiện đại bao gồm loạt truyện Sherlock Holmes của tác giả Conan Doyle và bộ The Sword in the Stone của T. H. White cũng có ở đó. Một cái giá chẳng để gì khác ngoài những tờ in khổ lớn - các tài liệu về thực vật học, atlas, sách y học. Nếu tất cả thư viện này ở tầng dưới, thì còn kho báu nào được cất giữ trong phòng làm việc giữa tòa tháp của Matthew đây?Anh để tôi đi một vòng quanh phòng, ngó nghiêng các tít sách và há hốc miệng kinh ngạc. Khi tôi trở lại bên cạnh anh, tất cả điều tôi có thể làm là lắc đầu không tin được."Tưởng tượng xem em có gì nếu liên tục mua những cuốn sách qua hàng thế kỷ," Matthew nói với một cái nhún vai gợi tôi nhớ đến Ysabeau. "Các thứ chồng đống cả lên. Năm nào nhà anh cũng phải bỏ bớt đi rất nhiều. Gia đình anh phải làm thế. Nếu không thì căn phòng này sẽ có kích thước của thư viện quốc gia Bibliothèque mất.""Vậy nó ở đâu?""Anh thấy là em đã hết kiên nhẫn rồi đấy." Anh đi tới một cái giá, phóng mắt nhìn quanh các cuốn sách, rồi lôi ra một cuốn sách nhỏ có bìa ép nhũ màu đen và trao nó cho tôi.Khi tôi nhìn quanh để kiếm một cái giá bằng nhung đặt nó lên, anh bật cười."Chỉ cần mở nó ra thôi, Diana. Nó sẽ không phân hủy mất đâu "Cảm giác thật lạ khi cầm một cuốn sách cổ thế này trên tay mình, nhất là khi tôi luôn nghĩ chúng là những đồ vật quý hiếm hơn là tài liệu để đọc. Cố gắng không mở bìa sách ra quá rộng và làm gãy nếp bìa, tôi ngó vào bên trong. Một cơn bùng nổ của các sắc màu sáng chói ùa ra."Ôi," tôi thở gấp. Các bản in khác của Aurora Consurgens mà tôi đã thấy không được tốt lắm. "Nó đẹp quá. Anh có biết ai vẽ các bức minh họa này không?""Một phụ nữ tên là Bourgot Le Noir. Bà khá nổi tiếng ở Paris vào khoảng giữa thế kỷ XIV." Matthew cầm quyển sách từ tay tôi và mở hẳn ra. "Đó. Giờ em có thể xem nó hẳn hoi rồi."Bức tranh minh họa đẩu tiên vẽ hình vị nữ hoàng đang đứng trên một ngọn đồi nhỏ, che chở cho bảy sinh vật nhỏ bé bên trong chiếc áo choàng xòe rộng của bà. Những dây nho thanh nhã tạo thành khung cho bức hình, chúng xoắn xuýt với nhau vắt ngang qua trang giấy hảo hạng. Đôi chỗ những nụ hoa mới hé nở tung thành những bông hoa, chim chóc đậu trên cành lá. Trong bóng chiều, chiếc váy dài thêu chỉ vàng của nữ hoàng sáng lấp lánh trên nền đỏ son rực rỡ. Ở cuối trang sách, một người đàn ông trong chiếc áo choàng đen đang ngồi trên đỉnh một cái khiên, đeo tấm huy hiệu màu đen và bạc. Người đàn ông hoàn toàn bị thu hút về phía nữ hoàng, vẻ sung sướng mê mẩn biểu lộ trên nét mặt anh ta và hai bàn tay đưa lên vẻ khấn nài."Sẽ chẳng ai tin được điều này. Một bản in vô danh của Aurora Consurgens – với những bức hình minh họa được vẽ bởi một người phụ nữ ư?" Tôi lắc đầu kinh ngạc. "Làm sao em viện dẫn nó được đây?""Anh sẽ cho thư viện Beinecke mượn cuốn sách này trong một năm, nếu điều đó có thể giúp ích được cho em. Ẩn danh, dĩ nhiên là thế. Cũng như Bourgot, các chuyên gia sẽ nói đó là công trình của cha cô ấy. Nhưng thật ra tất cả là của cô ấy. Chúng ta có thể nhờ nơi nào đó nhận cuốn sách," Matthew lơ đãng nói, đưa mắt nhìn quanh. "Anh sẽ hỏi Ysabeau xem mấy thứ của Godfrey ở đâu.""Godfrey?" Trước mắt tôi là hình ảnh chiếc gia huy lạ lẫm mang hình dáng một bông hoa bách hợp, bao quanh là một con rắn uốn tròn miệng ngậm đuôi của chính nó."Anh trai anh." vẻ lơ đãng rời khỏi giọng Matthew, nét mặt anh sa sầm. "Anh ấy chết năm 1668, trong một cuộc chiến quỷ quái của Louis XIV." Nhẹ nhàng đóng cuốn sách lại, anh để nó lên chiếc bàn gần đấy. "Anh sẽ mang cuốn cổ thư này lên phòng làm việc của anh sau, để em có thể xem xét nó kỹ càng hơn. Buổi sáng Ysabeau thường đọc báo ở đây, còn lại nó luôn bỏ trống. Em được chào đón đến ngắm nghía các giá sách ở đây bất cứ khi nào em thích."Với lời hứa đó, anh kéo tôi đi qua phòng khách vào đại sảnh. Chúng tôi đứng cạnh chiếc bàn có kê cái bát sứ Trung Quốc, anh chỉ cho tôi thấy các nét đặc trưng của căn phòng, bao gồm cả gian phòng trưng bày nghệ thuật của các gánh hát rong cổ, cửa lật trên mái nhà để thả khói ra trước khi các lò sưởi và ống khói được xây dựng, và lối lên tòa tháp canh hình vuông để canh chừng đường đi chính tiếp cận lâu đài. Việc leo lên đó có thể đợi một hôm nào khác.Matthew dẫn tôi xuống tầng hầm thấp hơn, với mê cung những kho thực phẩm, hầm chứa rượu, bếp, phòng cho gia nhân và tủ để đồ ăn. Marthe bước ra từ một gian bếp, bột mỳ phủ trên cánh tay bà lên tới tận khuỷu, bà đưa cho tôi một ổ bánh mỳ tươi ấm nóng mới lấy ra từ lò nướng. Tôi nhai ổ bánh trong khi Matthew dạo bước qua các hành lang, chỉ ra mục đích sử dụng trước đây của mỗi căn phòng – nơi chứa ngũ cốc, nơi thì treo thịt thú rừng, nơi để làm phó mát."Ma cà rồng không ăn bất cứ thứ gì mà?" tôi bối rối nói."Không, nhưng những vị chủ nhà của chúng ta thì có. Marthe thích nấu nướng."Tôi hứa sẽ tiếp tục làm cho bà lão được bận rộn. Ổ bánh mỳ ngon lành, những quả trứng thật hoàn hảo.Chặng dừng chân kế tiếp của chúng tôi là khu vườn. Mặc dù chúng tôi đã xuống một nhịp cầu thang để vào các gian bếp, nhưng lâu đài vẫn còn tầng trệt nữa. Các bụi hoa hồng phủ kín hai bến lối đi, vài bụi vẫn còn mấy bông hoa nở đơn độc.Nhưng mùi hương kích thích trí tò mò của tôi lại không phải là hương hoa. Tôi đi thẳng tới một tòa nhà đang vọng ra tiếng kêu rống."Cẩn thận đấy Diana," anh gọi với, sải bước qua đám sỏi, "Balthasar cắn đấy.""Con nào là Balthasar?"Matthew đi vòng qua lối vào chuồng ngựa, ánh nhìn lo lắng hiện trên nét mặt. "Con ngựa giống này sẽ dùng xương sống của em như là cây cột để chà cọ đấy," anh đáp. Tôi đang đứng quay lưng vào một con ngựa cao lớn nặng nề trong khi một chú chó to lớn tai cụp và một chú chó săn sói đang đi vòng quanh hai chân tôi, khịt mũi đánh hơi tôi vẻ thích thú."Ồ, cậu bé sẽ không cắn em đâu." Chú ngựa giống Percheron khổng lồ khéo léo giụi đầu để cọ tai vào hông tôi. "Và các quý ông này là ai thế?" tôi hỏi, xoa rối bộ lông trên cổ chú chó săn sói trong khi anh chàng tai cụp cố gắng ngậm lấy bàn tay tôi."Con chó săn là Fallon, còn con tai cụp là Hector." Matthew búng ngón tay và cả hai chú chó đầu chạy tới bên cạnh anh, ngoan ngoãn ngồi xuống quan sát nét mặt anh để chờ đợi những hiệu lệnh khác. "Làm ơn tránh xa con ngựa ấy ra.""Tại sao? Nó ngoan mà." Balthasar đã nằm ẹp xuống đất vẻ đồng ý và vểnh một cái tai ra sau tỏ vẻ kiêu ngạo với Matthew."Nếu những con thiêu thân lao mình vào ánh sáng ngọt ngào cuốn hút nó, thì chỉ bởi vì nó không biết rằng ngọn lửa ấy có thể nuốt chửng nó," Matthew thì thầm trong hơi thở. "Balthasar chỉ ngoan ngoãn cho tới khi nó thấy buồn chán thôi. Anh muốn em hãy tránh xa nó trước khi nó đá đổ cửa chuồng ngựa xuống.""Chúng ta đang làm ông chủ mày lo lắng đấy, và ông ấy bắt đầu ngâm những đoạn thơ tăm tối do một giáo sĩ điên cuồng người Italia viết rồi kìa. Tao sẽ trở lại vào ngày mai với thứ gì đó ngòn ngọt nhé." Tôi quay sang hôn lên mũi Balthasar. Cu cậu vẩy đuôi, bốn vó dậm nhảy vẻ nôn nóng.Matthew cố gắng giấu vẻ ngạc nhiên. "Em nhận ra ư?""Giordano Bruno. Nếu con hươu đực khát nước chạy tới bờ suối, thì chỉ bởi vì nó không để ý thấy cánh cung tàn nhẫn," tôi tiếp tục. "Nếu con kỳ lân kia chạy về cái tổ trinh bạch của nó, thì chỉ bởi vì nó không nhìn thấy cái thòng lọng đang chờ sẵn.""Em biết tác phẩm của The Nolan[20] ư?" Matthew đã dùng lối nói bí hiểm của thế kỷ XVI để ám chỉ bản thân mình.[20. Giordano Bruno (1548 tại Nola - 17/2/1600 tại Roma) hay còn gọi là Bruno Nolan, là một nhà triết học, một linh mục, nhà vũ trụ học và nhà huyền bí người Ý. Bruno được biết đến là người ủng hộ Thuyết nhật tâm của Nicolaus Copernicus và ông là một trong những nhân vật đầu tiên đưa ra ỷ tưởng về một Trái Đất vô tận và đồng nhất. Bruno cho rằng vũ trụ là bao la vô tận trong đó có các sinh vật, các hành tinh chưa được khám phá. Bruno bị tòa án La Mã kết tội là một dị giáo và bị hỏa thiêu tại Roma năm 1600. Ông được coi là tấm gương đầu hy sinh cho khoa học.]Mắt tôi nheo lại. Chúa lòng lành, anh ấy quen biết cả Bruno lẫn Machiavelli ư? Matthew có vẻ hay bị cuốn hút vào mỗi nhân cách kỳ lạ từng sống trên đời. "Ông ấy là một người ủng hộ ban đầu của Copernicus, còn em là một sử gia. Làm thế nào anh biết tác phẩm của Bruno?""Anh là một độc giả vĩ đại mà," anh đáp đánh trống lảng."Anh biết ông ấy!" Giọng tôi ra vẻ cáo buộc. "Ông ấy phải là một yêu tinh không?""Một con người vượt qua mức thiên tài điên loạn quá thường xuyên, anh e là thế.""Đáng lẽ em phải biết. Ông ấy tin có cuộc sống ngoài trái đất và nguyền rủa nhà thờ dị giáo trên đường lên giàn hỏa thiêu," tôi lắc đầu nói."Thế nhưng ông ấy hiểu được sức mạnh của niềm khao khát."Tôi sắc sảo quan sát chàng ma cà rồng. "Khao khát thúc giục, trong khi nỗi sợ kiềm hãm ta. Có phải Bruno là nhân vật chính trong bài luận của anh ở All Soul không?""Một chút." Quai hàm Matthew bạnh ra. "Em sẽ vui lòng tránh xa chỗ đó ra chứ? Chúng mình có thể trò chuyện về triết học vào một dịp khác."Những ý nghĩ khác lởn vởn qua tâm trí tôi. Còn điều gì đó khác nữa về tác phẩm của Bruno có thể khiến Matthew nghĩ về bản thân. Ông ấy viết về nữ thần Diana.Tôi bước xa khỏi chuồng ngựa."Balthasar không phải là một chú ngựa con đâu," Matthew cảnh cáo, kéo khuỷu tay tôi đi."Em có thể thấy điều đó mà. Nhưng em biết điều khiển cậu bé." Cả cuốn cổ thư về giả kin thuật và triết gia người Italia đều biến mất khỏi tâm trí tôi khi tôi nghĩ đến một thử thách như thế."Em cũng không cưỡi ngựa đấy chứ?" Matthew hỏi vẻ hoài nghi."Em lớn lên ở vùng thôn quê và cưỡi ngựa từ khi còn bé – huấn luyện ngựa, cưỡi chúng nhảy qua chướng ngại vật, và mọi thứ." Ở trên lưng một chú ngựa còn giống đang bay hơn cả chèo thuyền."Chúng ta có những con ngựa khác. Còn Balthasar sẽ ở nguyên đây," anh dứt khoát nói.Cưỡi ngựa là một phần thưởng ngoài dự kiến của chuyện đến Pháp này, một điều gần như khiến cho sự hiện diện lạnh lùng của Ysabeau trở nên có thể khoan thứ được. Matthew dẫn tôi tới đầu kia của chuồng ngựa, nơi sáu con thú ngoan ngoãn hơn đang đợi sẵn. Hai trong số chúng to lớn và đen tuyền – mặc dù không to lớn bằng Balthasar, một con ngựa cái màu hạt dẻ khá tròn trịa, con kia là một chú ngựa thiến màu hồng. Còn có hai con ngựa giống Andalusia màu xám nữa, chân lớn và cổ cong. Một con tiến tới cửa để xem cái gì đang đi vào địa phận của cô nàng."Đây là Nar Rakasa," anh nói, khẽ xoa mõm nó. "Tên nó có nghĩa là 'vũ công lửa.' Nhà anh thường chỉ gọi cô nàng là Rakasa thôi. Nó di chuyển đẹp lắm, nhưng tính rất ngang ngạnh. Em và nó sẽ hợp nhau lắm đấy."Tôi từ chối cắn câu, mặc dù đó là một lời mời chào quyến rũ. Tôi để Rakasa đánh hơi tóc và mặt mình. "Chị em của nó tên là gì?""Fiddat – nghĩa là bạc." Fiddat tiến tới trước khi nghe Matthew nhắc đến tên nó, đôi mắt đen của nó biểu lộ vẻ trìu mến. "Fiddat là ngựa của Ysabeau." Matthew chỉ vào hai con màu đen. "Còn hai con kia là của anh. Dahr và Sayad""Những cái tên ấy có nghĩa là gì?" tôi hỏi, bước tới ngăn chuồng của chúng."Dahr là tiếng Ả Rập nghĩa là thời gian, còn Sayad nghĩa là thợ săn," Matthew giải thích rồi bước đến nhập hội cùng tôi. "Sayad thích được cưỡi qua những cánh đồng chơi đuổi bắt và nhảy qua hàng rào. Dahr thì kiên nhẫn và mền tính."Chúng tôi tiếp tục chuyến tham quan, Matthew lưu ý tôi các đặc điểm của những ngọn núi và chỉ hướng thị trấn cho tôi. Anh chỉ cho tôi xem những chỗ lâu đài đã được sửa lại và cách những người thợ đã dùng các loại đá khác bởi vì loại đá nguyên bản không còn nữa. Chuyến tham quan kết thúc cũng là lúc tôi không còn lo lạc đường được nữa – ở chỗ phần tháp trung tâm thật khó mà lầm lẫn được."Tại sao em lại mệt thế nhỉ?" tôi ngáp dài khi chúng tôi quay về lâu đài."Em thật hết thuốc chữa," Matthew nói vẻ phát cáu. "Em có cần anh phải kể lại chi tiết các sự kiện trong 36 giờ qua không?"Trước sự thúc giục của anh, tôi đồng ý chợp mắt một giấc nữa. Để anh ở lại phòng làm việc, tôi leo lên cầu thang và nhào lên giường, quá mệt đến mức không buồn thổi tắt nến.Lát sau tôi đã mơ thấy mình đang cưỡi ngựa xuyên qua một cánh rừng tối tăm. Tôi mặc một chiếc áo dài rộng lùng thùng màu xanh lá cây thắt đai quanh eo, chân đi đôi xăng đan, dây dạ của chúng buộc bắt chéo quanh mắt cá và bắp chân tôi. Những con chó sủa vang, bốn chân chúng đạp đổ những bụi cây thấp phía sau tôi. Một cái bao đựng tên ghì chặt trên vai, một bàn tay tôi nắm chặt cây cung. Bất chấp các âm thanh báo điềm xấu có kẻ truy đuổi theo mình, tôi không hề cảm thấy sợ hãi.Trong giấc mơ, tôi mỉm cười biết rõ mình có thể chạy vượt xa những kẻ đang săn đuổi kia."Bay đi," tôi ra lệnh – và con ngựa tuân theo.
* Ça suffit: Thế là đủ rồi."Diana." Ysabeau nói với một âm e kéo dài chứ không phải là i và nhấn mạnh vào âm tiết đầu chứ không phải là âm thứ hai. Bà xòe một bàn tay trắng muốt lạnh giá ra và tôi đưa tay nắm hờ mấy ngón tay của bà. Matthew túm lấy tay trái tôi, và trong một khoảnh khắc chúng tôi đã tạo nên một chuỗi mắt xích kỳ lạ của ma cà rồng và phù thủy. "Encantada *."
* encantada (tiếng Tây Ban Nha): rất vui được gặp bạn"Bà rất vui được gặp em," Matthew nói, dịch lại cho tôi và bắn một tia nhìn cảnh cáo về phía bà mẹ."Đúng, đúng vậy," Ysabeau sốt ruột nói, quay lại phía con trai. "Đương nhiên cô ấy chỉ nói được tiếng Anh và tiếng Pháp mới thôi. Động vật máu nóng hiện đại thật quá kém giáo dục."Một bà lão người mập mạp với làn da trắng như tuyết và mái tóc đen dày rậm một cách phi lý kết thành những bím tóc rối beng bao quanh đầu bước vào tiền sảnh, hai cánh tay dang rộng ra. "Matthew!" bà la lên. "Cossi anatz?" (How are you?)"Va plan, mercés. E tu?" (I'm fine, thank you. And you? )Matthew ôm lấy bà và hôn lên cả hai bên má bà."Aital aital," ( So so...) bà đáp, nắm lấy khuỷu tay mình rồi tỏ vẻ giận dữMatthew thì thầm vẻ cảm thông, còn Ysabeau thì ngẩng lên nhìn trần nhà để tìm kiếm sự giải thoát khỏi cảnh tượng xúc động này."Marthe, đây là bạn tôi Diana," anh nói, vừa kéo tôi tới trước.Marthe cũng là ma cà rồng, một trong số những ma cà rồng già nhất mà tôi từng thấy. Bà ấy chắc phải ở vào tuổi sáu mươi khi được tái sinh, và dù mái tóc bà màu đen nhưng tuổi của bà thì không lầm vào đâu được. Những nếp nhăn ngang dọc khắp khuôn mặt bà, các khớp xương trên hai tay bà quá xương xẩu đến nỗi có vẻ ngay cả máu của ma cà rồng cũng không thể duỗi thẳng chúng ra được."Chào mừng, Diana," bà lão vừa nói bằng một chất giọng khàn khàn vẻ kiên định mà cũng thật đường mật, vừa nhìn sâu vào mắt tôi. Bà gật đầu với Matthew và với tới bàn tay tôi, hai cánh mũi phập phồng. "Elle est une puissante sorcière," bà nói với Matthew, giọng khen ngợi."Bà nói em là một phù thủy quyền năng," Matthew giải thích. Sự gần gũi của anh, cách nào đó đã làm giảm bớt đi cảm giác lo lắng mang tính bản năng của tôi khi có một ma cà rồng hít ngửi mình.Không biết phải phản ứng thế nào cho đúng cách của người Pháp, tôi chỉ đành mỉm cười yếu ớt với Marthe và thầm hy vọng như thế là ổn"Em kiệt sức rồi," Matthew nói, nháy mắt với tôi. Anh mau lẹ hỏi hai nữ ma cà rồng bằng một thứ tiếng lạ lùng. Kết quả là thật nhiều những cái chỉ trỏ, đảo mắt, mấy điệu bộ cường điệu và những tiếng thở dài. Khi Ysabeau nhắc đến tên Louisa, Matthew chằm chằm nhìn mẹ anh, cơn tức giận nổi lên trở lại. Giọng anh chuyển sang âm sắc bằng bằng, cộc lốc khi trả lời bà mẹ.Ysabeau nhún vai. "Dĩ nhiên rồi, Matthew," bà thì thầm với vẻ giả bộ thấy rõ."Chúng mình đi sắp xếp cho em nào." Giọng Matthew ấm áp khi anh nói với tôi."Tôi sẽ mang đồ ăn và rượu đến," Marthe nói bẳng thứ tiếng Anh ngắc ngứ."Cảm ơn bà," tôi nói. "Và cảm ơn bà nữa, Ysabeau, vì đã cho phép tôi ở trong nhà của bà." Ysabeau khịt mũi và nhe răng. Tôi hy vọng đó là một nụ cười nhưng lại sợ rằng không phải thế."Cả nước nữa, Marthe ạ," Matthew bổ sung thêm, "Ồ, và thức ăn đang trên đường đến đây nhỉ?""Một số đã đến rồi," mẹ anh chua chát nói. "Lá cây. Hàng bao tải rau và trứng. Con thật rất dở khi yêu cầu bọn họ đánh xe chở những thứ đó đến vùng nông thôn này.""Diana cần ăn, Maman. Con không tưởng tượng được là mẹ có nhiều đồ ăn thức uống trong ngôi nhà này đâu." Sợi cương dài của lòng kiên nhẫn ở Matthew đang tuột ra dần từ các sự kiện tối qua và bây giờ là cuộc trở về nhà lạnh nhạt của anh."Ta cần máu tươi, nhưng ta cũng không bắt Victoire và Alain tìm kiếm nó ở Paris và đem về giữa đêm hôm như thế." Ysabeau trông cực kỳ thỏa mãn và hài lòng với chính mình khi hai đầu gối tôi run lên.Matthew trút ra một hơi thở dữ dội, bàn tay anh đỡ dưới khuỷu tay tôi để giữ cho tôi đứng vững. "Marthe," anh yêu cầu, thể hiện rõ sự phớt lờ với Ysabeau, "bà có thể mang trứng, bánh mỳ nướng cùng một ít trà lên cho Diana không?"Marthe đưa mắt nhìn Ysabeau rồi quay sang Matthew như thể bà đang ở sân trung tâm của Wimbledon. Bà lão bật cười khúc khích. "Òc," bà đáp kèm theo một cái gật đầu vui vẻ."Chúng con sẽ gặp lại hai người vào bữa tối," Matthew điềm tĩnh nói. Tôi cảm thấy có bốn mảnh băng găm vào hai bờ vai mình khi hai nữ ma cà rồng nhìn theo chúng tôi. Marthe nói điều đó với Ysabeau làm bà mẹ Matthew phải khịt mũi tỏ vẻ khó chịu còn Matthew thì nở nụ cười rạng rỡ."Marthe nói gì thế anh?" Tôi thì thầm, rồi chợt muộn màng nhớ ra là sẽ chẳng có cuộc trò chuyện nào, dù thì thầm hay to tiếng, mà không bị mọi người trong ngôi nhà này nghe lỏm được."Bà ấy nói chúng mình rất đẹp đôi.""Em không muốn Ysabeau tức giận với em trong suốt thời gian chúng ta ở đây đâu.""Đừng để ý quá tới bà," anh bình thản nói. "Mẹ anh vốn khẩu xà tâm phật mà."Chúng tôi đi qua hành lang dẫn vào một căn phòng dài với những bộ bàn ghế được sắp xếp phân loại theo nhiều phong cách và thời kỳ khác nhau. Có hai chiếc lò sưởi, và hai hiệp sĩ trong bộ áo giáp sáng lấp lánh cưỡi ngựa đấu thương qua đầu nhau, những cây thương sáng choang bắt chéo gọn ghẽ mà không gây thương tích cho ai cả. Bức bích họa rõ ràng được vẽ bởi cùng một con người nhiệt tình có con mắt thẩm mỹ sướt mướt đã trang trí đại sảnh. Một cánh cửa đôi dẫn tới căn phòng khác, căn phòng này chất toàn những tủ sách."Đó là thư viện ư?" tôi hỏi, ngay lập tức quên mất thái độ thù địch của Ysabeau. "Em có thể xem bản in cuốn Aurora Consurgens của anh bây giờ không?""Để sau đã," Matthew dứt khoát nói. "Em phải ăn thứ gì đó rồi ngủ đi đã."Anh dẫn đường lên một cầu thang quanh co khác, rồi làm hoa tiêu qua một mê cung đồ gia dụng cổ xưa với vẻ thoải mái của người có kinh nghiệm lâu năm. Còn tôi đi qua mê cung này với vẻ ngập ngừng thăm dò hơn, hai đùi tôi xước vào mặt phía trước của mấy cái tủ com mốt và đụng vào một cái lọ sứ cao làm nó lắc lư. Cuối cùng khi chúng tôi tới chân một cầu thang khác, Matthew dừng lại."Còn phải leo lâu đây, em sẽ bị mệt. Em có cần anh bế không?""Không," tôi nổi đóa. "Anh sẽ không quăng em qua vai giống như những tay hiệp sĩ thời trung cổ xoáy đi các chiến lợi phẩm từ trận đánh được đâu."Matthew mím chặt môi lại, mắt long lanh."Anh không dám cười nhạo em đâu."Thế là anh phá lên cười, âm thanh vang dội vào các bức tường đá như thể có cả một đội ma cà rồng vui nhộn đang đứng trên cầu thang. Rốt cuộc đây chính xác là nơi các hiệp sĩ sẽ bồng các quý cô lên gác. Nhưng tôi không định trở thành một trong số họ.Đến bậc thứ mười lăm thì hai mạng sườn của tôi đã căng cứng vì gắng sức. Các bậc đá mòn vẹt của tòa tháp này không phải được tạo ra cho những đôi chân bình thường – rõ ràng chúng được thiết kế để dành cho các ma cà rồng như Matthew, những sinh vật cao trên một mét tám, cực kỳ nhanh nhẹn hoặc có cả hai yếu tố trên. Tôi nghiến răng và tiếp tục leo. Đến chỗ cong cuối cùng của cầu thang, một căn phòng đột ngột mở ra."Ôi." Bàn tay tôi vụt đưa lên miệng trong sự kinh ngạcTôi chẳng cần được bảo cho mới biết căn phòng này là của ai. Nó là của Matthew, hoàn toàn.Chúng tôi đang ở trong tòa tháp tròn duyên dáng của lâu đài - một ngọn tháp vẫn giữ nguyên phần mái bằng đồng đỏ hình nón trơn nhẵn và án ngữ sau lưng tòa nhà chính đồ sộ. Hàng cửa sổ ca, hẹp làm nổi bật các bức tường, và những ô cửa lợp chì để hắt vào ánh sáng và sắc màu mùa thu từ những cánh đồng và cây cối ngoài kia.Căn phòng hình tròn, và những đường cong duyên dáng của nó rất hài hòa với những đường thẳng hiếm hoi của những tủ sách cao. Một lò sưởi lớn được đặt vuông vức với các bức tường, đắp tựa vào cấu trúc trung tâm của tòa lâu đài. Cái lò sưởi này đã thoát khỏi sự chú ý của người họa sỹ vẽ bích họa giàu tưởng tượng kia một cách kỳ diệu. Những cái tay ghế và trường kỷ, bàn và gối quỳ, hầu như đều bị bao phủ trong màu xanh lá, nâu và vàng kim. Bất chấp kích thước của căn phòng và các phần nới rộng ra thênh thang bằng đá xám, tổng thể của nó vẫn toát lên một vẻ ấm cúng dễ chịu.Hầu hết những món đồ hấp dẫn của căn phòng đều là những thứ Matthew đã lựa chọn giữ lại từ rất nhiều cuộc sống mà anh đã trải qua. Một bức tranh của Vermeer dựa vào một cái giá sách bên cạnh một bức tường nhà chưa tô trát. Nó khá lạ - không phải là một trong mấy bức sơn dầu nổi tiếng của vị họa sĩ này. Bức tranh này trông oai nghiêm khủng khiếp giống y Matthew. Một thanh mã tấu dài và nặng đến nỗi chẳng ai ngoài một ma cà rồng có thể cầm nó mà treo lên phía trên lò sưởi cả, và một bộ áo giáp có kích thước của Matthew đứng trong góc phòng. Đối diện là một bộ xương người trông có vẻ cổ xưa treo trên một cái khung gỗ, các khớp xương được gắn với nhau bởi một thứ gì đó trông như dây đàn piano. Trên chiếc bàn bên cạnh là hai cái kính hiển vi, cả hai đều được làm từ thế kỷ mười bảy nếu tôi không nhầm. Một mô hình cây thánh giá có hình Chúa Jesus được trang trí công phu nạm đá màu đỏ, xanh lá và xanh da trời, được đặt vào một hốc tường cùng với bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng ngà voi đẹp lộng lẫy.Những bông tuyết của Matthew lại phảng phất lướt qua mặt tôi khi anh ngắm nhìn tôi xem xét tỉ mỉ những thứ thuộc về anh."Một viện bảo tàng Matthew," tôi khẽ nói, biết rằng mỗi món đồ đều có một câu chuyện để kể."Chỉ là phòng làm việc của anh thôi mà." "Ở đâu anh..." tôi bắt đầu, tay chỉ vào mấy cái kính hiển vi."Để sau đi," anh lại nói, "Em còn hơn ba mươi bậc thang nữa để leo cơ đấy."Matthew dẫn tôi qua phía kia căn phòng tới một chiếc cầu thang thứ hai. Cầu thang này cũng vậy, cong vút lên tận thiên đường. Sau ba mươi bậc thang chậm chạp nữa, tôi đã đứng trước một căn phòng hình tròn khác bị một chiếc giường bốn cọc khổng lồ bằng gỗ cây óc chó thống trị hoàn toàn cùng với màn và những tấm rèm treo nặng nề. Phía trên cao là những xà nhà và cột chống lộ rõ để giữ cho phần đỉnh tháp bằng đồng đỏ ở đúng chỗ. Một chiếc bàn được đấy sát vào tường, lò sưởi được xây chìm vào một bức tường khác, và mấy chiếc ghế bành thoải mái được sắp xếp phía trước chiếc lò. Đối diện, một cánh cửa hé mở để lộ cái bồn tắm khổng lồ."Nó giống như một cái tổ chim ưng ấy," tôi nói, ngó ra ngoài cửa sổ. Matthew đã ngắm nhìn khung cảnh này qua những ô cửa sổ này từ thời Trung Cổ. Tôi băn khoăn, trong thoáng chốc, về những người phụ nữ khác mà anh đã đưa đến đây trước tôi. Tôi chắc chắn mình không phải là người đầu tiên, nhưng tôi không nghĩ là có nhiều người khác. Lâu đài này có một sự riêng tư thật mãnh liệt.Matthew tiến đến phía sau và nhìn qua vai tôi. "Em bằng lòng chứ?" Hơi thở của anh nhè nhẹ phả vào tai tôi. Tôi gật đầu."Bao lâu rồi?" Tôi hỏi, không thể kiềm nén được."Tòa tháp này ư?" Anh hỏi. "Khoảng bảy trăm năm." "Còn ngôi làng ấy? Họ có biết về gia đình anh không?""Có. Giống như phù thủy, ma cà rồng được an toàn hơn khi họ tách biệt với cộng đồng dân cư sinh sống, những người biết về họ nhưng không thắc mắc quá nhiều."Tổ tiên của nhà Bishop đã sống ở Madison mà không hề có bất kỳ ai gây chuyện om sòm để bị chú ý. Giống như Peter Knox, chúng tôi đang giấu mình trong vẻ ngoài bình dị."Cảm ơn anh vì đã đưa em tới Sept-Tours," tôi nói. "Em thật sự cảm thấy an toàn hơn ở Oxford." Không kể đến Ysabeau."Cảm ơn vì em đã dũng cảm đương đầu với mẹ anh." Matthew khúc khích cười như thể anh nghe thấy được cả những lời tôi không nói ra. Mùi hương cẩm chướng đặc trưng thoảng qua giọng anh. "Bà bảo bọc quá mức, giống như hầu hết các bậc phụ huynh.""Em cảm thấy mình thật ngớ ngấn – và luộm thuộm nữa. Em không mang theo một thứ gì để mặc cho phù hợp với chuẩn mực của mẹ anh." Tôi cắn môi, trán nhăn lại."Coco Chanel cũng chưa đáp ứng được chuẩn mực của Ysabeau đâu. Em có lẽ nên nhắm đến cái gì cao hơn một chút."Tôi bật cười và quay người lại, tìm kiếm ánh mắt anh. Khi hai ánh mắt gặp nhau, tôi như ngừng thở. Ánh nhìn đắm đuối của Matthew ngưng đọng lại nơi mắt tôi, nấn ná xuống hai má và cuối cùng là bờ môi tôi. Bàn tay anh nâng cằm tôi lên."Em thật quá sống động," anh nói khàn khàn. "Đáng lẽ em nên ở cùng với một người đàn ông trẻ hơn nhiều, thật nhiều."Tôi nhón chân lên. Anh nghiêng đầu cúi xuống. Trước khi môi chúng tôi kịp chạm nhau thì có tiếng khay lách cách trên bàn."Vos etz arbres e branca," (cô ấy là một phù thủy quyền năng) Marthe ngâm nga hát, ranh mãnh liếc nhìn Matthew.Anh bật cười và hát đối lại bằng một giọng nam trung trong trẻo, "Onfruitz de gaug s'asazona."(= You are the tree and branch, where delight's fruit ripens.- Bạn là cây và cành, nơi quả chín đang vào mùa.""Đó là ngôn ngữ gì thế?" Tôi hỏi, hạ chân xuống và đi theo Matthew tới chỗ lò sưởi."Tiếng nói cổ xưa đấy," Marthe đáp."Occitan." (vẫn được sử dụng tại một số thị trấn nhỏ ở đây nơi tôi sống, Catalonia và Aragón, và ở miền nam nước Pháp ) Matthew gỡ bỏ lớp giấy bạc bọc đĩa trứng. Mùi thức ăn nóng hổi bay khắp phòng. "Marthe quyết định ngâm một bài thơ trước khi em ngồi vào bàn ăn đấy."Marthe cười giòn và kéo cái khăn lau giắt ở thắt lưng đánh vào cổ tay Matthew. Anh thả tờ giấy bọc ra và kéo ghế ngồi."Tới đây, tới đây nào," bà lão nói, ra hiệu về phía cái ghế đối diện với anh. "Ngồi đi, ăn đi nào." Tôi làm theo. Marthe rót cho Matthew một ly vang từ chiếc bình thủy tinh cao quai bạc."Mercés," anh thì thầm nói, mũi ngay lập tức hướng về phía cái lyMột chiếc bình tương tự nữa đựng nước đá lạnh, và Marthe rót nó vào một cái ly khác rồi đưa cho tôi. Bà rót ra một tách trà nghi ngút khói, và tôi lập tức nhận ra nó đến từ cửa hiệu Manage Freres ở Paris. Rõ ràng Matthew đã tiến hành khám xét tủ ấm chén trong khi tôi ngủ tối qua và cụ thể hóa các danh sách mua sắm của anh. Marthe rót một lớp kem dày vào tách trà trước khi Matthew kịp ngăn bà lại, tôi bèn lừ mắt nhìn anh cảnh cáo. Về điểm này tôi cần có đồng minh. Hơn nữa, tôi đang quá khát nên chẳng quan tâm lắm. Anh ngoan ngoãn ngả người ra sau ghế, nhấm nháp ly rượu vang của mình.Marthe lấy ra từ chiếc khay của bà nhiều thứ khác nữa - một bộ dao dĩa bằng bạc, muối, hạt tiêu, bơ, mứt; bánh mỳ nướng và món trứng ốp lết vàng rộm rắc gia vị thảo mộc tươi."Merci, Marthe," tôi nói với niềm biết ơn tự đáy lòng."Ăn đi!" bà ra lệnh, lần này hướng chiếc khăn về phía tôi.Marthe ngắm nhìn vẻ thỏa mãn khi tôi nhiệt tình cắn những miếng đầu tiên. Thế rồi bà khịt mũi đánh hơi trong không khí. Bà cau mày và hướng ánh nhìn bực tức về phía Matthew trước khi sải bước tiến tới chỗ lò sưởi. Một que diêm được đánh lên, củi khô bắt đầu kêu lách tách."Marthe," Matthew phản đối, đứng dậy cùng với ly rượu vang, "tôi có thể làm việc đó mà.""Cô ấy đang lạnh," Marthế cằn nhằn, rõ ràng là bực mình rằng anh đã không làm việc này trước khi ngồi vào bàn, "và cậu thì đang khát. Tôi sẽ nhóm lửa lên,"Trong vài phút ngọn lửa đã cháy bùng lên. Mặc dù chẳng có ngọn lửa nào có thể làm căn phòng to lớn này nóng lên ngay lập tức, nhưng nó cũng xua đi được giá lạnh trong không khí. Marthe xoa hai bàn tay vào nhau và đứng dậy. "Cô ấy phải đi ngủ. Tôi có thể ngửi thấy mùi lo sợ ở cô ấy.""Cô ấy sẽ đi ngủ khi đã ăn xong,"Matthew đáp, giơ tay phải lên vẻ trịnh trọng cam kết. Marthe nhìn anh thật lâu và lắc lắc một ngón tay về phía anh như thể anh chàng mới 15 chứ không phải là 1500 tuổi. Cuối cùng cái vẻ ngây thơ vô tội của anh đã thuyết phục được bà. Bà rời khỏi phòng, đôi bàn chân cổ xưa di chuyển xuống các bậc thang đẩy thách thức kia một cách chắc chắn."Occitan là ngôn ngữ của những người hát rong từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII, có đúng không?" tôi hỏi sau khi Marthe đã rời đi. Chàng ma cà rồng gật đầu. "Em không biết là nó được nói ở vùng phía Bắc xa xôi này đấy.""Chúng ta không phải vùng phía Bắc xa xôi đâu," Matthew cười đáp. "Đã có thời Paris chẳng hơn gì một thị trấn giáp ranh biên giới cả. Thế nên hầu hết người ta đều nói tiếng Occitan. Nhưng những ngọn đồi đã ngăn giữ người phương Bắc - và ngôn ngữ của họ trở nên xa xôi. Thậm chí ngay cả bây giờ người dân ở đây vẫn cảnh giác đề phòng với những người ở bên ngoài đến.""Những lời ấy có nghĩa là gì?" tôi hỏi."Em là cây và cành lá," Matthew nói, mắt không rời những đường cắt ngang dọc trên cảnh vùng thôn quê hiển hiện qua ô cửa sổ gần nhất, "nơi quả khoái lạc chín muồi." Rồi anh lắc đầu rầu rĩ. "Marthe sẽ ngâm nga bài hát này cả buổi chiều và làm Ysabeau phát điên lên mất."Ngọn lửa tiếp tục lan ra sưởi ấm căn phòng, hơi nóng khiến tôi mơ màng ngủ. Đến khi món trứng hết thì mắt tôi đã díu lại.Tôi đang ngáp nửa chừng thì Matthew kéo tôi ra khỏi ghế. Anh bế thốc tôi trên hai cánh tay, đôi bàn chân tôi đung đưa giữa không trung. Tôi bắt đầu phản đối."Đủ rồi," anh nói. "Em chỉ còn vừa đủ sức ngồi thẳng dậy được thôi, chứ đừng nói gì đến chuyện đi bộ."Rồi anh nhẹ nhàng đặt tôi xuống cuối giường và kéo khăn phủ ra. Lớp dra giường trắng như tuyết trông thật tinh tươm và mời gọi. Tôi thả đầu lên núi gối đang tựa sẵn vào mấy hình chạm khắc quả óc chó rối rắm nơi đầu giường."Ngủ đi." Matthew cầm mấy tấm màn và kéo mạnh."Em không dám chắc là mình có thể ngủ được," tôi nói khó nhọc giữa một cái ngáp khác. "Em không giỏi việc ngủ ngày thế này.""Mọi biểu hiện lại cho thấy điều ngược lại đấy," anh nói cộc lốc. "Bây giờ em đang ở Pháp rồi. Em không cần phải cố gắng gì cả. Anh sẽ ở lầu dưới. Hãy gọi nếu em cần bất cứ thứ gì."Với một cầu thang dẫn từ sảnh lên tới phòng làm việc của anh và một cầu thang khác từ phía đối diện dẫn lên phòng ngủ, không ai có thể lên căn phòng này mà không đi ngang qua chỗ Matthew. Các căn phòng này được thiết kế như thể anh ấy cần bảo vệ bản thân khỏi chính gia đình mình vậy.Một câu hỏi dâng lên trên môi tôi, nhưng anh đã thả màn và giật mạnh lần cuối cho chúng khép sát vào nhau khiến tôi phải thực sự im lặng. Những tấm màn nặng nề của chiếc giường ngăn không cho ánh sáng và cả bụi bặm xuyên qua. Thư giãn trong tấm đệm êm ái, hơi ấm của cơ thể tôi khuếch tán lên thêm nhờ những lớp chăn mềm mại trên giường, và tôi mau chóng chìm vào giấc ngủ.Tôi thức giấc bởi tiếng sột soạt giở trang sách và ngồi thẳng dậy, cố mường tượng xem tại sao ai lại đóng kín tôi vào một chiếc hộp vải như thế này. Thế rồi tôi nhớ ra.Pháp. Matthew. Ở nhà của anh ấy."Matthew?" tôi khẽ gọi.Anh vén màn nhìn xuống và mỉm cười. Phía sau anh, nến đã được thắp lên – hàng tá nến. Vài ngọn được đặt vào chân đế quanh phòng, những ngọn khác thì đứng trong các đài nến trang trí cầu kỳ đặt trên sàn nhà và mấy chiếc bàn gần đó."Đối với người nào đó không ngủ ngày thì em đã ngủ khá là ngon lành đấy," anh nói với vẻ hài lòng. Trong chừng mực anh lo lắng thì chuyến đi đến Pháp có vẻ đã thành công."Mấy giờ rồi anh?""Anh sẽ kiếm cho em một cái đồng hồ đeo tay nếu em cứ suốt ngày hỏi anh câu đó." Matthew liếc nhìn chiếc Cartier cũ của anh. "Gần hai giờ chiều rồi. Marthe có lẽ sẽ lên đây bất cứ khi nào để mang trà cho em. Em có muốn tắm và thay đồ không?"Ý nghĩ về cái vòi hoa sen nóng ấm khiến tôi háo hức hất tung chăn ra. "Vâng, làm ơn!"Matthew né người tránh hai chân tôi bay vọt xuống giường và giúp tôi đứng xuống sàn nhà, cái giường cao hơn là tôi tưởng. Sàn phòng còn lạnh nữa, những phiến đá lát sàn chọc vào hai bàn chân trần của tôi."Túi xách của em ở trong phòng tắm, máy tính ở dưới lầu trong phòng làm việc của anh, và có khăn tắm sạch đấy. Em tranh thủ đi." Anh nhìn theo khi tôi tập tễnh đi vào phòng tắm."Đây là cung điện à!" tôi thốt lên. Một bồn tắm khổng lổ màu trắng chễm chệ giữa phòng giữa hai ô cửa sổ, và một cái ghế băng dài đỡ lấy túi đồ lề Yale xiêu vẹo của tôi. Trong góc phía xa, một đầu vòi tắm hoa sen được lắp đặt dính vào tường.Tôi bắt đầu mở nước, đinh ninh phải đợi một lúc lâu cho nó nóng lên. Kỳ diệu thay, hơi nước lập tức bao trùm lấy tôi, hương mật ong và xuân đào từ bánh xà bông lập tức xua tan cảm giác căng thẳng của 24 giờ qua.Khi các cơ bắp đã được thư giãn, tôi mặc vào chiếc quần jean và áo len cổ lọ, rồi đi một đôi tất ngắn. Không có ổ cắm để dùng máy sấy tóc, tôi dùng khăn tắm lau chà mạnh mái tóc và chải lược trước khi túm buộc ra sau thành một cái đuôi ngựa."Marthe đã mang trà lên rồi," Matthew nói khi tôi quay trở lại phòng ngủ, liếc nhanh qua ấm và tách trà đặt trên bàn. "Muốn anh rót cho em một ít không?"Tôi thở dài khoan khoái khi chất lỏng dễ chịu ấy trôi xuống cổ họng mình. "Khi nào thì em được xem cuốn Aurora?""Khi anh chắc chắn em sẽ không mất hút vào trong thư viện như cái kiểu của em. Sẵn sàng cho một chuyến tham quan học tập chưa?""Rồi ạ." Tôi trượt xuống rón rén đi trên đôi tất trở vào phòng tắm để lấy cái áo len. Trong khi tôi chạy lòng vòng, Matthew kiên nhẫn đứng bên đầu cầu thang chờ đợi."Chúng mình có nên mang ấm trà xuống không?" tôi hỏi, nhón chân dừng lại."Không, bà lão sẽ nổi đóa lên mất nếu anh để cho khách chạm vào dù chỉ một cái đĩa. Đợi 24 giờ nữa hãy giúp đỡ Marthe."Matthew lướt xuống cầu thang như thể anh có thể bịt mắt mà đi trên mặt đất bằng vậy. Tôi thì lần mò, dò dẫm những ngón tay dọc theo bức tường đá.Khi chúng tôi xuống tới phòng làm việc, anh chỉ chiếc máy tính của tôi, nó đã được cắm điện và nằm yên trên chiếc bàn bên cửa sổ, rồi chúng tôi xuống phòng khách. Marthe đã có mặt ở đó, một ngọn lửa ấm áp đang cháy tí tách trong lò sưởi, gửi mùi khói gỗ bay đi khắp phòng. Tôi túm lấy Matthew."Thư viện," tôi nói. "Chuyến thăm quan cần bắt đầu từ chỗ đó.Lại một căn phòng khác được chất đầy hết năm này qua năm khác những món đồ nội thất và các đồ trang trí tạp nham không mấy giá trị. Một cái ghế gấp Savonarola của Ý nhô lên bên cạnh chiếc bàn viết kiểu Pháp, trong khi một chiếc bàn bằng gỗ sồi rộng thênh thang vào khoảng năm 1700 phô bày những cái ngăn kéo trông như thể chúng đến từ một viện bảo tàng thời Victoria. Bất chấp sự thiếu hài hòa, căn phòng vẫn được liên kết với nhau bởi hàng dặm dài những cuốn sách bìa bọc da trên các giá sách làm từ gỗ cây óc chó và một tấm thảm Aubusson khổng lồ màu vàng nhạt, xanh dương và nâu.Như hầu hết các thư viện cổ, sách ở đây được bày trên giá theo kích cỡ. Có những tập bản thảo buộc dây da, để trên giá với gáy sách nằm trong và ngoài những cái móc trang trí, các tít được viết bằng mực trên rìa trước của giấy da cừu. Có những cuốn sách bé tí xíu của thời kỳ in đầu tiên và cỡ bỏ túi nằm thành hàng gọn ghẽ trên một giá sách, tạo thành cầu nối lịch sử từ các bản thảo in từ năm 1450 tới ngày nay. Một số lượng những ấn bản đầu tiên hiếm có thời hiện đại bao gồm loạt truyện Sherlock Holmes của tác giả Conan Doyle và bộ The Sword in the Stone của T. H. White cũng có ở đó. Một cái giá chẳng để gì khác ngoài những tờ in khổ lớn - các tài liệu về thực vật học, atlas, sách y học. Nếu tất cả thư viện này ở tầng dưới, thì còn kho báu nào được cất giữ trong phòng làm việc giữa tòa tháp của Matthew đây?Anh để tôi đi một vòng quanh phòng, ngó nghiêng các tít sách và há hốc miệng kinh ngạc. Khi tôi trở lại bên cạnh anh, tất cả điều tôi có thể làm là lắc đầu không tin được."Tưởng tượng xem em có gì nếu liên tục mua những cuốn sách qua hàng thế kỷ," Matthew nói với một cái nhún vai gợi tôi nhớ đến Ysabeau. "Các thứ chồng đống cả lên. Năm nào nhà anh cũng phải bỏ bớt đi rất nhiều. Gia đình anh phải làm thế. Nếu không thì căn phòng này sẽ có kích thước của thư viện quốc gia Bibliothèque mất.""Vậy nó ở đâu?""Anh thấy là em đã hết kiên nhẫn rồi đấy." Anh đi tới một cái giá, phóng mắt nhìn quanh các cuốn sách, rồi lôi ra một cuốn sách nhỏ có bìa ép nhũ màu đen và trao nó cho tôi.Khi tôi nhìn quanh để kiếm một cái giá bằng nhung đặt nó lên, anh bật cười."Chỉ cần mở nó ra thôi, Diana. Nó sẽ không phân hủy mất đâu "Cảm giác thật lạ khi cầm một cuốn sách cổ thế này trên tay mình, nhất là khi tôi luôn nghĩ chúng là những đồ vật quý hiếm hơn là tài liệu để đọc. Cố gắng không mở bìa sách ra quá rộng và làm gãy nếp bìa, tôi ngó vào bên trong. Một cơn bùng nổ của các sắc màu sáng chói ùa ra."Ôi," tôi thở gấp. Các bản in khác của Aurora Consurgens mà tôi đã thấy không được tốt lắm. "Nó đẹp quá. Anh có biết ai vẽ các bức minh họa này không?""Một phụ nữ tên là Bourgot Le Noir. Bà khá nổi tiếng ở Paris vào khoảng giữa thế kỷ XIV." Matthew cầm quyển sách từ tay tôi và mở hẳn ra. "Đó. Giờ em có thể xem nó hẳn hoi rồi."Bức tranh minh họa đẩu tiên vẽ hình vị nữ hoàng đang đứng trên một ngọn đồi nhỏ, che chở cho bảy sinh vật nhỏ bé bên trong chiếc áo choàng xòe rộng của bà. Những dây nho thanh nhã tạo thành khung cho bức hình, chúng xoắn xuýt với nhau vắt ngang qua trang giấy hảo hạng. Đôi chỗ những nụ hoa mới hé nở tung thành những bông hoa, chim chóc đậu trên cành lá. Trong bóng chiều, chiếc váy dài thêu chỉ vàng của nữ hoàng sáng lấp lánh trên nền đỏ son rực rỡ. Ở cuối trang sách, một người đàn ông trong chiếc áo choàng đen đang ngồi trên đỉnh một cái khiên, đeo tấm huy hiệu màu đen và bạc. Người đàn ông hoàn toàn bị thu hút về phía nữ hoàng, vẻ sung sướng mê mẩn biểu lộ trên nét mặt anh ta và hai bàn tay đưa lên vẻ khấn nài."Sẽ chẳng ai tin được điều này. Một bản in vô danh của Aurora Consurgens – với những bức hình minh họa được vẽ bởi một người phụ nữ ư?" Tôi lắc đầu kinh ngạc. "Làm sao em viện dẫn nó được đây?""Anh sẽ cho thư viện Beinecke mượn cuốn sách này trong một năm, nếu điều đó có thể giúp ích được cho em. Ẩn danh, dĩ nhiên là thế. Cũng như Bourgot, các chuyên gia sẽ nói đó là công trình của cha cô ấy. Nhưng thật ra tất cả là của cô ấy. Chúng ta có thể nhờ nơi nào đó nhận cuốn sách," Matthew lơ đãng nói, đưa mắt nhìn quanh. "Anh sẽ hỏi Ysabeau xem mấy thứ của Godfrey ở đâu.""Godfrey?" Trước mắt tôi là hình ảnh chiếc gia huy lạ lẫm mang hình dáng một bông hoa bách hợp, bao quanh là một con rắn uốn tròn miệng ngậm đuôi của chính nó."Anh trai anh." vẻ lơ đãng rời khỏi giọng Matthew, nét mặt anh sa sầm. "Anh ấy chết năm 1668, trong một cuộc chiến quỷ quái của Louis XIV." Nhẹ nhàng đóng cuốn sách lại, anh để nó lên chiếc bàn gần đấy. "Anh sẽ mang cuốn cổ thư này lên phòng làm việc của anh sau, để em có thể xem xét nó kỹ càng hơn. Buổi sáng Ysabeau thường đọc báo ở đây, còn lại nó luôn bỏ trống. Em được chào đón đến ngắm nghía các giá sách ở đây bất cứ khi nào em thích."Với lời hứa đó, anh kéo tôi đi qua phòng khách vào đại sảnh. Chúng tôi đứng cạnh chiếc bàn có kê cái bát sứ Trung Quốc, anh chỉ cho tôi thấy các nét đặc trưng của căn phòng, bao gồm cả gian phòng trưng bày nghệ thuật của các gánh hát rong cổ, cửa lật trên mái nhà để thả khói ra trước khi các lò sưởi và ống khói được xây dựng, và lối lên tòa tháp canh hình vuông để canh chừng đường đi chính tiếp cận lâu đài. Việc leo lên đó có thể đợi một hôm nào khác.Matthew dẫn tôi xuống tầng hầm thấp hơn, với mê cung những kho thực phẩm, hầm chứa rượu, bếp, phòng cho gia nhân và tủ để đồ ăn. Marthe bước ra từ một gian bếp, bột mỳ phủ trên cánh tay bà lên tới tận khuỷu, bà đưa cho tôi một ổ bánh mỳ tươi ấm nóng mới lấy ra từ lò nướng. Tôi nhai ổ bánh trong khi Matthew dạo bước qua các hành lang, chỉ ra mục đích sử dụng trước đây của mỗi căn phòng – nơi chứa ngũ cốc, nơi thì treo thịt thú rừng, nơi để làm phó mát."Ma cà rồng không ăn bất cứ thứ gì mà?" tôi bối rối nói."Không, nhưng những vị chủ nhà của chúng ta thì có. Marthe thích nấu nướng."Tôi hứa sẽ tiếp tục làm cho bà lão được bận rộn. Ổ bánh mỳ ngon lành, những quả trứng thật hoàn hảo.Chặng dừng chân kế tiếp của chúng tôi là khu vườn. Mặc dù chúng tôi đã xuống một nhịp cầu thang để vào các gian bếp, nhưng lâu đài vẫn còn tầng trệt nữa. Các bụi hoa hồng phủ kín hai bến lối đi, vài bụi vẫn còn mấy bông hoa nở đơn độc.Nhưng mùi hương kích thích trí tò mò của tôi lại không phải là hương hoa. Tôi đi thẳng tới một tòa nhà đang vọng ra tiếng kêu rống."Cẩn thận đấy Diana," anh gọi với, sải bước qua đám sỏi, "Balthasar cắn đấy.""Con nào là Balthasar?"Matthew đi vòng qua lối vào chuồng ngựa, ánh nhìn lo lắng hiện trên nét mặt. "Con ngựa giống này sẽ dùng xương sống của em như là cây cột để chà cọ đấy," anh đáp. Tôi đang đứng quay lưng vào một con ngựa cao lớn nặng nề trong khi một chú chó to lớn tai cụp và một chú chó săn sói đang đi vòng quanh hai chân tôi, khịt mũi đánh hơi tôi vẻ thích thú."Ồ, cậu bé sẽ không cắn em đâu." Chú ngựa giống Percheron khổng lồ khéo léo giụi đầu để cọ tai vào hông tôi. "Và các quý ông này là ai thế?" tôi hỏi, xoa rối bộ lông trên cổ chú chó săn sói trong khi anh chàng tai cụp cố gắng ngậm lấy bàn tay tôi."Con chó săn là Fallon, còn con tai cụp là Hector." Matthew búng ngón tay và cả hai chú chó đầu chạy tới bên cạnh anh, ngoan ngoãn ngồi xuống quan sát nét mặt anh để chờ đợi những hiệu lệnh khác. "Làm ơn tránh xa con ngựa ấy ra.""Tại sao? Nó ngoan mà." Balthasar đã nằm ẹp xuống đất vẻ đồng ý và vểnh một cái tai ra sau tỏ vẻ kiêu ngạo với Matthew."Nếu những con thiêu thân lao mình vào ánh sáng ngọt ngào cuốn hút nó, thì chỉ bởi vì nó không biết rằng ngọn lửa ấy có thể nuốt chửng nó," Matthew thì thầm trong hơi thở. "Balthasar chỉ ngoan ngoãn cho tới khi nó thấy buồn chán thôi. Anh muốn em hãy tránh xa nó trước khi nó đá đổ cửa chuồng ngựa xuống.""Chúng ta đang làm ông chủ mày lo lắng đấy, và ông ấy bắt đầu ngâm những đoạn thơ tăm tối do một giáo sĩ điên cuồng người Italia viết rồi kìa. Tao sẽ trở lại vào ngày mai với thứ gì đó ngòn ngọt nhé." Tôi quay sang hôn lên mũi Balthasar. Cu cậu vẩy đuôi, bốn vó dậm nhảy vẻ nôn nóng.Matthew cố gắng giấu vẻ ngạc nhiên. "Em nhận ra ư?""Giordano Bruno. Nếu con hươu đực khát nước chạy tới bờ suối, thì chỉ bởi vì nó không để ý thấy cánh cung tàn nhẫn," tôi tiếp tục. "Nếu con kỳ lân kia chạy về cái tổ trinh bạch của nó, thì chỉ bởi vì nó không nhìn thấy cái thòng lọng đang chờ sẵn.""Em biết tác phẩm của The Nolan[20] ư?" Matthew đã dùng lối nói bí hiểm của thế kỷ XVI để ám chỉ bản thân mình.[20. Giordano Bruno (1548 tại Nola - 17/2/1600 tại Roma) hay còn gọi là Bruno Nolan, là một nhà triết học, một linh mục, nhà vũ trụ học và nhà huyền bí người Ý. Bruno được biết đến là người ủng hộ Thuyết nhật tâm của Nicolaus Copernicus và ông là một trong những nhân vật đầu tiên đưa ra ỷ tưởng về một Trái Đất vô tận và đồng nhất. Bruno cho rằng vũ trụ là bao la vô tận trong đó có các sinh vật, các hành tinh chưa được khám phá. Bruno bị tòa án La Mã kết tội là một dị giáo và bị hỏa thiêu tại Roma năm 1600. Ông được coi là tấm gương đầu hy sinh cho khoa học.]Mắt tôi nheo lại. Chúa lòng lành, anh ấy quen biết cả Bruno lẫn Machiavelli ư? Matthew có vẻ hay bị cuốn hút vào mỗi nhân cách kỳ lạ từng sống trên đời. "Ông ấy là một người ủng hộ ban đầu của Copernicus, còn em là một sử gia. Làm thế nào anh biết tác phẩm của Bruno?""Anh là một độc giả vĩ đại mà," anh đáp đánh trống lảng."Anh biết ông ấy!" Giọng tôi ra vẻ cáo buộc. "Ông ấy phải là một yêu tinh không?""Một con người vượt qua mức thiên tài điên loạn quá thường xuyên, anh e là thế.""Đáng lẽ em phải biết. Ông ấy tin có cuộc sống ngoài trái đất và nguyền rủa nhà thờ dị giáo trên đường lên giàn hỏa thiêu," tôi lắc đầu nói."Thế nhưng ông ấy hiểu được sức mạnh của niềm khao khát."Tôi sắc sảo quan sát chàng ma cà rồng. "Khao khát thúc giục, trong khi nỗi sợ kiềm hãm ta. Có phải Bruno là nhân vật chính trong bài luận của anh ở All Soul không?""Một chút." Quai hàm Matthew bạnh ra. "Em sẽ vui lòng tránh xa chỗ đó ra chứ? Chúng mình có thể trò chuyện về triết học vào một dịp khác."Những ý nghĩ khác lởn vởn qua tâm trí tôi. Còn điều gì đó khác nữa về tác phẩm của Bruno có thể khiến Matthew nghĩ về bản thân. Ông ấy viết về nữ thần Diana.Tôi bước xa khỏi chuồng ngựa."Balthasar không phải là một chú ngựa con đâu," Matthew cảnh cáo, kéo khuỷu tay tôi đi."Em có thể thấy điều đó mà. Nhưng em biết điều khiển cậu bé." Cả cuốn cổ thư về giả kin thuật và triết gia người Italia đều biến mất khỏi tâm trí tôi khi tôi nghĩ đến một thử thách như thế."Em cũng không cưỡi ngựa đấy chứ?" Matthew hỏi vẻ hoài nghi."Em lớn lên ở vùng thôn quê và cưỡi ngựa từ khi còn bé – huấn luyện ngựa, cưỡi chúng nhảy qua chướng ngại vật, và mọi thứ." Ở trên lưng một chú ngựa còn giống đang bay hơn cả chèo thuyền."Chúng ta có những con ngựa khác. Còn Balthasar sẽ ở nguyên đây," anh dứt khoát nói.Cưỡi ngựa là một phần thưởng ngoài dự kiến của chuyện đến Pháp này, một điều gần như khiến cho sự hiện diện lạnh lùng của Ysabeau trở nên có thể khoan thứ được. Matthew dẫn tôi tới đầu kia của chuồng ngựa, nơi sáu con thú ngoan ngoãn hơn đang đợi sẵn. Hai trong số chúng to lớn và đen tuyền – mặc dù không to lớn bằng Balthasar, một con ngựa cái màu hạt dẻ khá tròn trịa, con kia là một chú ngựa thiến màu hồng. Còn có hai con ngựa giống Andalusia màu xám nữa, chân lớn và cổ cong. Một con tiến tới cửa để xem cái gì đang đi vào địa phận của cô nàng."Đây là Nar Rakasa," anh nói, khẽ xoa mõm nó. "Tên nó có nghĩa là 'vũ công lửa.' Nhà anh thường chỉ gọi cô nàng là Rakasa thôi. Nó di chuyển đẹp lắm, nhưng tính rất ngang ngạnh. Em và nó sẽ hợp nhau lắm đấy."Tôi từ chối cắn câu, mặc dù đó là một lời mời chào quyến rũ. Tôi để Rakasa đánh hơi tóc và mặt mình. "Chị em của nó tên là gì?""Fiddat – nghĩa là bạc." Fiddat tiến tới trước khi nghe Matthew nhắc đến tên nó, đôi mắt đen của nó biểu lộ vẻ trìu mến. "Fiddat là ngựa của Ysabeau." Matthew chỉ vào hai con màu đen. "Còn hai con kia là của anh. Dahr và Sayad""Những cái tên ấy có nghĩa là gì?" tôi hỏi, bước tới ngăn chuồng của chúng."Dahr là tiếng Ả Rập nghĩa là thời gian, còn Sayad nghĩa là thợ săn," Matthew giải thích rồi bước đến nhập hội cùng tôi. "Sayad thích được cưỡi qua những cánh đồng chơi đuổi bắt và nhảy qua hàng rào. Dahr thì kiên nhẫn và mền tính."Chúng tôi tiếp tục chuyến tham quan, Matthew lưu ý tôi các đặc điểm của những ngọn núi và chỉ hướng thị trấn cho tôi. Anh chỉ cho tôi xem những chỗ lâu đài đã được sửa lại và cách những người thợ đã dùng các loại đá khác bởi vì loại đá nguyên bản không còn nữa. Chuyến tham quan kết thúc cũng là lúc tôi không còn lo lạc đường được nữa – ở chỗ phần tháp trung tâm thật khó mà lầm lẫn được."Tại sao em lại mệt thế nhỉ?" tôi ngáp dài khi chúng tôi quay về lâu đài."Em thật hết thuốc chữa," Matthew nói vẻ phát cáu. "Em có cần anh phải kể lại chi tiết các sự kiện trong 36 giờ qua không?"Trước sự thúc giục của anh, tôi đồng ý chợp mắt một giấc nữa. Để anh ở lại phòng làm việc, tôi leo lên cầu thang và nhào lên giường, quá mệt đến mức không buồn thổi tắt nến.Lát sau tôi đã mơ thấy mình đang cưỡi ngựa xuyên qua một cánh rừng tối tăm. Tôi mặc một chiếc áo dài rộng lùng thùng màu xanh lá cây thắt đai quanh eo, chân đi đôi xăng đan, dây dạ của chúng buộc bắt chéo quanh mắt cá và bắp chân tôi. Những con chó sủa vang, bốn chân chúng đạp đổ những bụi cây thấp phía sau tôi. Một cái bao đựng tên ghì chặt trên vai, một bàn tay tôi nắm chặt cây cung. Bất chấp các âm thanh báo điềm xấu có kẻ truy đuổi theo mình, tôi không hề cảm thấy sợ hãi.Trong giấc mơ, tôi mỉm cười biết rõ mình có thể chạy vượt xa những kẻ đang săn đuổi kia."Bay đi," tôi ra lệnh – và con ngựa tuân theo.
Bạn đang đọc truyện trên: LoveTruyen.Me