Out Cast
#The attack Đến tận cuối tháng 3, tôi mới có lần nói chuyện duy nhất với Garret. Từ hồi mùa đông nó đã ngày càng lùi sâu vào thế giới riêng, điều này hoàn toàn ổn với mọi người, nhưng lại khiến tôi càng lo lắng. Một lần đi xem phim với bạn, ai đó trong chúng tôi đã bình phẩm về kẻ giết người hàng loạt trong bộ phim vừa chiếu rồi rút ra những điểm tương đồng với Garret, và tôi, không những không cười hùa theo, thậm chí còn lớn tiếng thắc mắc liệu mình có phải người duy nhất thực sự lo ngại về những chuyện Garret có thể gây ra hay không. Nỗi lo cứ thế tăng dần đến nỗi mỗi lần nhìn thấy nó, tôi đều để ý ngay cả những chi tiết nhỏ nhất về bộ dạng ngày càng nhếch nhác của nó, cái thói lúc nào cũng mặc quần áo y hệt, râu ria chẳng bao giờ cạo, tất cả những điều đó, hay như chiếc hình xăm mới trên cổ mà tôi chú ý thấy. Không thể tưởng tượng rằng chẳng có gì đáng lo hơn việc chính nó là mối đe dọa thực sự cho bản thân, hoặc cho tất cả chúng tôi. Mấy đứa bạn tôi im bặt, một lúc sau, Rich Griffin - một thằng học sinh đứng top nằm trong số 21 đứa sau này được New York Times thuê làm phóng viên toàn thời gian sau khi tốt nghiệp ĐH – nói rằng lúc nào nó cũng nghĩ đến chuyện này, và nó biết một giáo viên ở tổ Tiếng Anh - không tiện nói tên – cũng cảm thấy y hệt, đến mức thi thoảng cô phải đến gặp hiệu trưởng để xem có cách nào hợp pháp và khả thi để can thiệp vào đời sống của Garret hay không. Rồi đến lượt Mike Beck, thằng bị đè nát cả cánh tay trái trong lúc hỗn loạn do vụ thảm sát của Garret gây ra 40 ngày sau, kể với bọn tôi nó cũng bắt đầu thấy sợ Garret trong một lần bắt chuyện và rủ thằng này tham gia clb điện ảnh ở trường, để làm những video phát trực tuyến định kì trên mạng. Garret chỉ làu bàu "Không! Cảm ơn!", thằng Mike cũng thôi luôn. Rõ ràng tôi không phải đứa duy nhất chú ý đến Garret và để tâm một cách có chủ ý đến việc nó rút lui khỏi những mỗi quan hệ bạn bè, nhưng chuyện đó cũng chẳng làm tôi thấy khá hơn tí nào.21/3, ngày đầu tiên của tiết trời Xuân, một ngày lạnh lẽo, mưa rả rích. Tôi đến trường bằng con xe bán tải của mẹ hòng về nhà muộn, vì còn phải tới thư viện vùi đầu vào bài luận về cuộc đời George Mason. Nhưng rồi chỉ 1 tiếng sau tôi bị đuổi, đến tầm 5 giờ 30 thì tôi cũng đi khỏi đó luôn, trời khi ấy sắp vào hoàng hôn. Đi dọc đường Elm Tree, tôi nhìn thấy Garret đang cuốc bộ giữa mưa, chẳng mang theo ô dù gì cả. Chuyện thằng Mike Beck cố làm thân với Garret vẫn tôi vẫn nhớ như in, rồi tôi – chính thức phản bội niềm tin của bố - tấp vào lề, bước ra khỏi xe, hỏi Garret xem nó có cần đi nhờ đến chỗ nào không. Hoặc là tôi còn có một động cơ nào đó sâu xa hơn, thực ra chủ yếu là tôi tò mò và muốn nhìn sâu vào bên trong con người nó, để biết nó có phải người tốt hay không, hay chỉ là một kiểu tính cách nào đó không thể gọi tên ra. Và đúng thế thật, giờ thì tôi cho rằng trong tính cách của nó có một chút vị kỉ, một dấu hiệu của kiểu sống khép mình. Thực lòng, tôi muốn ủng hộ những mặt tốt đẹp bên trong nó. Nhưng tôi lại sợ nó, và muốn nó biết rằng tôi không giống như bất kì đứa nào ngoài kia, cái lũ người vẫn xa lánh hoặc thường xuyên chế giễu sau lưng nó.Nhưng nó làm tôi ngạc nhiên, với lời đồng ý lầm bầm trong miệng mặc dù hơi có gì đó khiên cưỡng, nhưng rồi cũng lên xe. Ngay khi vừa đánh lái ra khỏi lề đường, tôi hỏi nó bắt đầu đi bộ từ đâu, và biết rằng nó xuất phát từ tiệm băng đĩa. Tôi kể với nó về lần tôi nghe nó đánh ghita, nó chỉ nhún vai rằng thỉnh thoảng có chơi nhưng giờ cũng không còn hứng thú với món đấy nữa. Suốt cơn mưa, bọn tôi giữ im lặng. Nó bảo chỉ đang sang nhà bạn thôi, nên là tôi có thể thả nó ở cổng Công viên Forbes, chỗ có mấy sân bóng bao quanh khu dân cư. Tôi mở lời đề nghị chở tới tận trước cửa nhà bạn nó, cho dù người đấy có là ai đi nữa, cơ mà nó từ chối, vì không muốn đến quá sớm, nên nó sẽ ngồi đọc sách ở trạm dừng xe bus phía trước công viên. Tôi cũng chẳng miễn cưỡng thêm, rồi hỏi xem nó thích đọc loại sách gì, nó kể ra một vài tác giả Khoa học Viễn tưởng tôi biết, và mấy nhà triết học mà tôi chưa nghe bao giờ. Hình xăm mới một bên cổ của nó làm tôi chú ý. Nhỏ thôi, nhưng rõ ràng, có ba màu: xanh dương thẫm, xám, và đen, tượng hình một bóng người trùm đầu, với cánh tay dang rộng, trên tay cầm một chiếc đèn bão.Chỉ mấy phút sau, chúng tôi đến nơi, tôi cua xe vào bên trong, nó lặng lẽ cảm ơn rồi mở cửa bước ra. Những chuyện tiếp theo đây tôi chứng kiến được chỉ là vô tình, vì phần nào đó tôi vẫn còn chú ý đến Garret khi nó đóng cửa xe rồi đi bộ lại trạm xe bus. Tôi cứ nhìn theo nó chỉ để cố nói với theo "Gặp ở trường sau nhé" bằng giọng thân thiện nhất có thể. Không thì tôi đã ngoảnh ra sau nhìn qua kính chắn gió rồi và nếu thế thì sẽ bỏ lỡ hoàn toàn chuyện xảy ra trong tầm mắt, tôi quên luôn những gì định nói và dồn sự tập trung vào nơi khác. Lúc Garret vừa đi được khoảng 7 8 bước gì đấy, tôi nghe thấy tiếng một cú táng trời giáng, rất chân thực, như thể ai đó vừa ăn trọn một cú đấm, và tôi nhìn thấy Garret với cái đầu lắc sang trái giống như vừa bị một cục đá ném trúng một cách đầy ác ý. Nó chững lại, và tôi thề rằng gần như ngay lúc đó nó lập tức chọn cách chịu đựng, để không ai xung quanh nhận ra rằng có điều gì bất thường vừa xảy ra. Thậm chí nó còn chẳng thèm nhìn một cái về phía khu rừng, chỗ rất có thể có thứ gì đó bay ra va trúng đầu nó như vừa rồi. Nó cứ thế bước đi, còn không hề đưa tay lên xoa. Chẳng có hòn đá nào, hay thứ gì hữu hình gây ra chuyện vừa rồi cả. Ngay khi định hình được cái gì vừa xảy ra, tôi gọi với theo, hỏi nó có sao không. Nó lẳng lặng giơ một tay lên rồi thõng xuống ra điều vẫn ổn, không thèm ngoảnh lại. Tất cả diễn ra chỉ trong vòng hai giây. Tôi nhanh chóng đảo bánh ra phía đường, chuồn thẳng, tim đập thình thịch, tự ép bản thân không được ngoảnh đầu lại. Trong đầu tôi liên tục nghe thấy âm thanh ấy. Chỉ khi ra đến đường lớn, tôi mới lén nhìn qua gương chiếu hậu, thấy Garret vừa ngồi xuống ghế vừa lôi ra từ ba lô một cuốn sách. Ngay cả từ khoảng cách này, tôi vẫn có thể nhận ra phần tóc bên tai phải của nó rối tung hơn hẳn so với bên còn lại. Nó không màng tới việc vuốt lại tóc. Chính sự phớt lờ của nó càng làm tôi cho rằng nó không hề bất ngờ khi bị tấn công như thế, như thể chuyện tương tự thế này cũng từng xảy ra rồi. Nhưng cái gì gây ra chuyện này, tôi không bao giờ biết được. Đôi lúc tôi cũng tự thắc mắc, bất cứ mỗi khi nói chuyện dăm ba câu với người khác - một hành động hiếm thấy với kẻ như Garret – thì nó có bị giống như vừa rồi không.
#The dream Đêm hôm đó tôi ngủ không được thẳng giấc cho lắm, toàn bị tỉnh giữa chừng. Đến hơn 2h thì tôi quyết định bò dậy, tìm kiếm ít thông tin trên internet, chơi vài ba cái game nào đó. Khi bắt đầu có cảm giác buồn ngủ lại, lúc gần 3h, tôi nghe thấy tiếng cửa chính mở ra rồi đóng lại ở dưới tầng. Vì không chắc lắm ai lại về nhà vào giờ này vào một buổi đêm thứ 5, tôi có đôi chút hoảng sợ. Bố tôi không đi làm về muộn 2 năm nay rồi. Ông em Ben vẫn nghe thấy tiếng đang ngủ từ phòng bên cạnh, cũng chẳng có lí do gì để nó ý đi ra ngoài. Tôi mặc chiếc quần nỉ vào rồi xuống dưới nhà, rồi nhìn thấy bố ở trong bếp, đang tự làm sandwich, người đầm đìa mồ hôi mặc dù thời tiết bên ngoài không thể nào quá 10 độ. Tôi hỏi bố vừa từ đâu về, ông trả lời rằng một người đồng nghiệp cũ vài năm trước của bố tìm ra một manh mối liên quan đến vụ án mà ông đang theo, thế nên ông muốn ra ngoài luôn, tránh bỏ lỡ thời cơ. Ông chỉ kể được với tôi đến đấy. Khoảnh khắc đó, tôi như được khai sáng, và hỏi lại một cách khờ khạo rằng có phải những manh mối đấy có candự tới Garret Markish không. Trong 3 tuần trở lại đây, bố tôi đến nhà Kirk Neavitt 2 lần, hỏi han nhiều hơn, cố gắng tìm ra lời giải cho cái câu mà nó lặp đi lặp lại hàng tá lần: "Rồi tao sẽ tắm máu tất cả". Câu trả lời cho điều tôi vừa hỏi là không, chuyện ông ấy ra ngoài vào đêm đó không liên quan gì cả. Ông kêu mệt, muốn đi ngủ, và bảo rằng sẽ nói chuyện với tôi sau. Tôi lại hỏi sao ông ấy lại đổ mồ hôi nhiều thế, thì ông viện lí do mặc quá nhiều lớp áo thôi. Ông đi lên tầng luôn sau đó, trong lúc đang làm dở cái bánh, như thể không có chút ý niệm nào về việc đang làm. Tôi cũng đi vào giường, nhưng nằm trằn trọc mãi đến sáng. Ngay hôm sau, Garret bị bắt khi vừa ra khỏi nhà để đi bộ đến trường. Bố tôi không tham gia vụ này. Thực ra hôm đấy ông không đi làm. Garret bị cáo buộc một tội hơi kì lạ: "Trộm chó". Bằng chứng cho thấy Garret đã bắt cóc một chú chó của một gia đình sống cách nhà nó vài căn. Tối hôm đó sau khi từ sở Cảnh sát về, bố tôi thừa nhận không biết vụ này. Tôi biết ông nói dối. Một người cả đời chuyên xử lí những kẻ dối trá như ông cuối cùng lại quá ngô nghê để làm ra vẻ thuyết phục người khác rằng mình đang thành thật.Mặc dù biết biết rằng ở trường, chuyện của Garret đã đến tai mọi người, nhưng kì lạ ở chỗ tôi chưa từng nghe ai bàn tàn về vụ đó. Sự im ắng gần như là tuyệt đối, cái tên Garret như thế đã trở thành một thứ cấm kị. Giờ thì tôi tin Garret đã vô tình tác động đến tinh thần tập thể của mọi người bằng cách làm cho chúng tôi có một cảm giác bất an, rằng nếu còn nhắc đến nó, mọi chuyện sẽ càng tệ đi. Nó như một bóng đen bao trùm lên toàn bộ ngôi trường, và tất cả chúng tôi đều muốn coi như nó không tồn tại nữa. Chẳng có gì hay ho khi nói về nó, giống như phần lớn những thằng đáng ghét khác. Thậm chí, mọi thứ về Garret đều gây ra cảm giác khó chịu khi nghĩ đến, và nếu cứ tiếp tục như thế, thì không hay ho chút nào, vậy nên tất cả chúng tôi, giáo viên cũng như học sinh, đều không hé miệng bất cứ một lời. Nhưng chuyện Garret vắng mặt ở trường bằng cách nào đó càng làm tôi lo lắng. Chúng tôi đều biết nó đã bị bắt, nhưng không ai biết chính xác giờ nó đang ở đâu. Tôi không ngừng nghĩ về điều này. Giả sử nếu biết được địa chỉ nhà, tôi sẽ làm một cú lượn lờ xung quanh, ngó nghiêng một cách lịch sự nhất khi đi qua nhà nó, nhỡ đâu lại phát hiện ra nó ở một khung cửa sổ nào đó. Nỗi kinh sợ của tôi mỗi lúc một lớn dần theo từng ngày Garret vắng mặt. Tôi muốn nói với ai đó về linh cảm của mình rằng có một chuyện gì đó kinh khủng lắm sắp xảy đến, về một giấc mơ tôi mơ mình đang đi trên một chuyến tàu ở đâu đó trong sa mạc, cùng với tất cả bạn bè trong lớp đang ngồi xung quanh, khi đang đi ngang một vùng đất tăm tối, và rồi thầy Bush xuất hiện ở hành lang với cây rìu trên tay. Ông cố trấn tĩnh mọi người, trong khi đang cố ngăn Garret làm đoàn tàu trật bánh ra khỏi đường ray và giết chết tất cả. Ông bảo cách tốt nhất mà tôi giúp được bây giờ, là cố gắng giải mã dấu ấn trên cơ thể nó, rồi chỉ vào vết xăm có hình người mặc áo choàng đen dang tay cầm cây đèn bão. Lúc tôi nói với thầy không biết phải làm điều đó như thế nào, ổng giận giữ đổ hết mọi tội lỗi cho tôi, và rồi, cả toa tàu ngập trong máu. Trong bóng tối, ông đưa cho tôi cây rìu, rồi bảo tôi tự mà lo liệu. Sau khi tỉnh dậy khỏi giấc mộng đó, lần đầu tiên sau nhiều năm, tôi bật khóc vì sợ.
#The lost Thứ 6, ngày 30/4/2004, một ngày trước khi bố tôi biến mất. Cả tối hôm đó tôi ở nhà Mike Beck, bên dưới hầm, giúp nó lắp hoàn chỉnh mô hình đoàn tàu, vài tuần một lần hai đứa sẽ chơi trò này. Bọn tôi mở nhạc lên, và thư giãn với những thú vui không bao giờ có điểm dừng. Bố mẹ nó đang ở đầu kia thành phố. Chơi được khoảng 1 tiếng rưỡi, đến tầm hơn 9 giờ một chút, thì mất điện. Bị mắc kẹt trong bóng tối, chúng tôi cười lên đầy lo lắng. Mike đi lên nhà tìm đèn pin, còn tôi chờ ở dưới, rồi nó nhìn qua cửa sổ trong phòng khách và nhận ra quanh khu này chẳng có nhà nào mất điện cả. Đúng thế thật. Âm thanh duy nhất ngoài kia là của con chó nhà hàng xóm, một con chó săn Labrador hung dữ, sủa ầm ĩ, thường không phải kiểu sủa báo động, nhưng vẫn ấn tượng với tôi đến tận sau này. Tôi nghĩ cả hai đứa nên ra ngoài xem có nhóm người nào đang ở ngoài đó không. Vậy là chúng tôi ra khỏi nhà, nhìn trái nhìn phải. Chẳng có gì hết. Lúc đi vào, Mike nghĩ đến việc gọi cho bố mẹ để nói họ không cần vội về làm gì cả. Kể từ lúc sinh em bé, đây là lần đầu tiên họ ra ngoài chơi. Santa bé bỏng ở nhà với người trông trẻ. Cuối cùng thì nó quyết định không gọi. Lúc đó là 20 phút từ thời điểm mất điện.
Chẳng biết phải làm gì, chúng tôi lại đi xuống hầm, Mike lục tung lên tìm nến. Rồi một chuyện tiếp theo xảy đến. Chúng tôi đi qua phòng giặt là, luồn lách đến chỗ bình nước nóng và hộp cầu chì. Nhìn vào bên trong hộp cầu chì, bọn tôi thấy từng cái công tắc một ở vị trí bị ngắt, đồng loạt, như thể bị ai đó gạt xuống cùng lúc. Lần lượt, Mike gạt hết công tắc lên, đèn lại sáng khắp nhà. Problem solved. Nó hỏi tôi có biết cầu chì hoạt động như nào không, kiểu như có bao giờ tất cả công tắc đồng thời bị ngắt chứ không phải một hai cái như thế không. Tôi không chắc. Đang mải nghĩ thì tôi bắt gặp khuôn mặt nó - có vẻ như giờ không bận tâm lắm về chuyện đấy nữa, Mike đưa ngón tay ra dấu im lặng. Nó nói: "Tao vừa thấy gì đó ngoài kia". Qua khung cửa sổ tầng hầm bé tí, nó nhìn thấy có đôi chân vừa bước nhanh qua, cách mặt kính khoảng 30cm. Bọn tôi nhanh chóng trở lên nhà, chia nhau ra nhìn khắp các cửa số lớn hơn. Chẳng có gì cả, trong vườn, lối ra vào, hay cả con đường ngoài kia. Bọn tôi lại vòng ra sau nhà, đi vào bếp. Mike căng mắt nhìn về phía cửa sau. Nó sững lại. Cánh cửa nhà kho ở góc vườn đã bị ai đó mở ra. Nó không nhớ nối có ai lại để cái cửa đó mở như thế, nhưng điều đó cũng chẳng có nghĩa gì lắm. Nó bảo tôi lùi lại phía tủ lạnh, để từ ngoài nhìn vào không ai thấy hai đứa đang đứng ở đó. Chúng tôi đứng nhìn cái nhà kho đó 1 lúc lâu, với một tầm nhìn khá giới hạn chỉ đủ để nhìn thấy những gì Mike vừa bảo: cánh cửa bị mở hé ra, không quá 30 phân. Không có thứ gì đang động đậy ngoài kia cả. Vài phút trôi qua, Mike càng lúc càng tin trong nhà kho đang có người. Tôi muốn gọi cảnh sát, nhưng nó lắc đầu. Nó muốn chờ thêm một lúc. Tôi vặc lại rằng có chắc lúc nãy dưới hầm nó nhìn thấy có người không, nó quả quyết với tôi đến 90%. Là chín mươi phần trăm. Bọn tôi chôn chân ở đó gần 10 phút, rồi quyết định sẽ ra ngoài. Giả như mà có điều gì không hay ho lắm xảy ra lúc đang lại gần nhà kho, bọn tôi sẽ gọi cảnh sát. Mike ngập ngừng định bật đèn nhưng lại sợ làm hiên nhà sáng lên, cuối cùng nó cũng dứt khoát bật công tắc. Phần bóng tạo ra bởi ánh đèn làm cho phía cuối sân chỗ nhà kho càng tối hơn. Chúng tôi mở cửa sau và ló đầu ra,. Mike khư khư trên tay cái búa lấy từ ngăn kéo, còn tôi cầm đèn pin. Đầu tiên bọn tôi mạo hiểm đi hẳn ra ngoài nhưng cũng không vượt quá hiên nhà. Mike hét lớn: "Ai đang ở ngoài kia?" Chỉ có tiếng chó sủa đáp lại. Lại chờ. Chẳng có gì nhúc nhích. Từ phần sân sau trở lên phía trên là đất khai thác, mỗi người dân ở đây đều sở hữu từ 1 đến 2ha, với rất ít cây cối xung quanh. Một số ít những ngôi nhà trên kia có treo đèn trên cửa sổ, số còn lại thì không.Cửa nhà kho hé ra chắc chỉ tầm hơn 20 phân. Mike chửi thề trong tiếng thở, mà hơn hết, tôi nghĩ, trong chính sự sợ hãi của nó. Bọn tôi đi lên bãi cỏ rồi chậm rãi tiến lại tới khi cách nhà kho tầm 3m, vẫn chẳng thể nhìn được tí gì vào bên trong qua khe cửa đang hé. Quái dị làm sao, trong bóng tối, cái nhà kho bỗng nhiên giống như lối đi vào bên trong hầm mộ nào đó một cách kì lạ. Cuối cùng, Mike bước tới, bất chợt mở toang cửa, hét lớn: "Hey!" Mấy cái bản lề cửa lung lay toàn bộ, kêu kẽo kẹt; sau đó một tiếng "rắc" bén tai vang lên, cánh cửa bị kéo ra đến mức tối đa, rồi bật trở lại, gần như đóng luôn cho tới khi tôi nhào tới chặn bằng 1 tay. Tôi đã chuẩn bị tinh thần lao vào, nhưng dưới luồng sáng của đèn pin, trong nhà kho lúc ấy chẳng có gì ngoài đồ làm vườn, mấy chồng báo, và vài cái xe đạp.Sau đó, chúng tôi tản ra, khảo sát một vài chỗ quanh căn nhà, trên đường phố, nhưng vẫn chẳng có kết quả gì. Lúc gặp lại trong nhà, bọn tôi lại kiểm tra phòng giặt là và khoảng trống quanh hộp cầu chì. Có lẽ chỉ là một mạch điện nào đó bị quá tải, dẫn tới mất điện và không có gì đến mức ám ảnh thái quá như vậy. Mike vẫn không muốn phiền tới bố mẹ, nó xem xét mọi chuyện trong im lặng, không nói một lời. Phần thời gian còn lại tối hôm đó, cho tới khi bố mẹ của Mike về, bọn tôi cùng ngồi xem phim trên lầu, giăng đèn khắp nhà, khóa hết cửa nẻo, volume bật to, cố không nghĩ về những chuyện vừa rồi. Mike tiễn tôi ra cửa lúc 11h30. Những thứ mà nó nghĩ ra được - nó nói – có thể hơi kì cục, rằng có khi đêm đó Garret đã xuất hiện ở nhà nó. Nó kể với tôi cảm giác khi chạm mắt Garret vào ngày rủ thằng đấy tham gia nhóm làm phim, cái cảm giác khi biết mình vừa làm một điều hết sức không nên, như thể đã đi quá giới hạn mà nó hoàn toàn không nhận ra, và rồi đột nhiên Garret mặc định nó như một sự đe dọa. Nhưng nếu chỉ với một nghi ngờ vô căn cứ như thế, nó sẽ không báo cảnh sát nữa. Thành ra lúc này bọn tôi chẳng biết phải làm gì. Rốt cuộc thì, Mike có thực sự nghĩ Garret bằng cách nào đó đã đột nhập vào nhà không? Với động cơ gì, kế hoạch như thế nào? Khi tôi lái xe qua 4 dãy nhà trên đường về, đường phố không một bóng người. Giấc ngủ kéo dài vài ba tiếng tối hôm đó cũng là giấc ngủ dài nhất tôi có được trong những tháng tiếp theo, khi một sự kinh dị hữu hình bắt đầu xuất hiện.Sáng hôm sau, em trai tôi tìm thấy một mảnh giấy bố tôi để lại trên bàn ăn. Hôm đó là thứ bảy, Ben đi xuống bếp ăn sáng trước khi đến Lều Phát Thanh trong trung tâm thương mại để làm việc, và nó thấy một mảnh giấy được gấp bên dưới lọ rắc muối. Dòng chữ quá khổ quen thuộc của bố tôi: "Gặp cả nhà sau nhé!" viết bằng bút bi. Hai đứa chúng tôi chẳng ai nghĩ gì, vì thường vào thứ bảy bố rất hay đến mấy cửa hàng gia dụng từ sớm để chuẩn bị cho vài dự án cải thiện nhà ở đại loại thế. Nhưng rồi buổi trưa ông cũng không về, điện thoại di động càng không gọi được. Đến đêm, khi vẫn không nhận được tin gì từ bố, mẹ tôi gọi điện cầu cứu Gregory Gurganus – đồng nghiệp của bố tôi, trong sự hoảng sợ. Nhưng ông cũng không biết bố tôi đang ở đâu. Nửa đêm, mẹ tôi phải làm một liều thuốc ngủ mới thiếp đi được, để không bị suy sụp bởi lo âu và stress. Những đồng nghiệp của bố tôi ở sở Cảnh sát, tất cả họ đều biết cuộc sống hạnh phúc của ông bên gia đình suốt 19 năm qua, thế nên chẳng có lí do gì để họ làm khó chúng tôi, ngay lập tức hành động và làm hết khả năng để tìm ông ấy.Nửa đêm, tôi nằm trằn trọc, sự hoài nghi về việc bố tôi có một cuộc sống bí mật, hay một nguyên nhân sâu xa nào đó khiến ông biến mất mà bọn tôi không tài nào hiểu nổi, đã dần bị thay thế bởi một giả thiết có vẻ khả thi hơn, là bố tôi đã ra ngoài làm nhiệm vụ, chỉ đạo một vụ án nào đó mà gia đình không hay biết, rồi bị bắt cóc, hoặc sát hại. Chưa bao giờ cả nhà phải lo lắng cho bố vì những nguy hiểm trong nghề, mặc dù những chuyện như thế hoàn toàn có thể. Đến đêm ngày chủ nhật, mẹ tôi đã phải nhờ tới thuốc kê đơn để kiểm soát cơn hoảng loạn, tôi và em mình cũng chẳng ăn ngủ được gì. Tin nhắn bố tôi để lại đã được mang đi phục vụ điều tra với sự thận trọng ở mức cao nhất, hình ảnh mẩu giấy đó ám ảnh mạnh mẽ tới chúng tôi.Vì các thám tử phải điều tra sâu hơn về vụ mất tích của bố, nên hai ngày thứ 2 và thứ 3 tôi không đến trường. Đến thứ 4, tôi tìm thấy một bức thư trong hòm thư trước nhà, và gần như phát ngất khi chạm vào cái phong bì đó, cái phong bì có chữ viết của bố tôi. Dấu bưu điện trên đó được đóng ở Los Angeles, California, cách đây gần 3 nghìn cây số, từ thứ 7 tuần trước, nghĩa là nó phải được gửi cùng với thời điểm bố tôi biến mất. Giấu không cho mẹ biết, tôi mở bao thư và lôi ra một tờ giấy màu cam cùng một bức ảnh. Nội dung trên tờ giấy y hệt với lúc đầu: "Gặp cả nhà sau nhé" chấm than. Tôi nhìn chằm chằm bức ảnh trong vài phút, lắc nhẹ. Kiểu ảnh Polaroid, hình như là bố tôi tự chụp. Ông đang đứng trước một cửa hàng nào đó vào một ngày nắng rực rỡ. Bố tôi cười với camera một cách dễ chịu, ấm áp. Ông mặc chiếc áo bóng đá mang số 32, cũng là món quà sinh nhật tôi tặng từ 6 tuần trước.#...Cho đến tận sau này, tôi mới dám khẳng định Garret Markish chính là kẻ đã mang bố tôi đi, hoặc cao siêu hơn, là khiến ông tự nghĩ rằng đã tới lúc thoát khỏi công việc, gia đình và cả cuộc sống, vì ông đã khui ra quá nhiều bí mật của nó trong cuộc điều tra tối muộn ngày hôm đó. Tôi hình dung Garret đã làm điều đó chỉ với một câu chú giản đơn, thậm chí 1 từ, hoặc phất tay một cái, triệu hồi một năng lực nào đó mà không ai tưởng tượng nổi. Nó là một con quỷ dữ. Tôi tới tìm Gregory Gurganus, và trong căn phòng nhỏ hình vuông nơi bố tôi và chú ấy từng làm việc với nhau, tôi nói ra hết những cảm giác của mình và kể cho chú về những hoài nghi của tôi một cách riêng tư. Mẹ và em tôi đều không có ở đó. Lúc đó là 7 giờ tối, ngày 5/5. Tôi dành ra hẳn nửa tiếng đồng hồ để bộc bạch những suy nghĩ của mình với chú – người bạn của gia đình tôi suốt 10 năm qua. Có một lí do chính đáng, chú nói, lí do chú không thể nói với tôi về những gì liên quan đến Garret mà 2 người đã điều tra ra; trong lúc sự việc diễn ra càng lúc càng căng thẳng, không một ai có thể hình dung được gần đây họ đã phải đi bao xa để tìm hiểu về quá khứ của Garret. Trong mấy tuần vừa rồi, không ai trong số hai người được chợp mắt một phút nào.
Ngay lúc đó, chú ấy cũng hứa với tôi, là người ta sẽ tìm được bố tôi, còn sống, ông cũng không hề nghĩ rằng có lẽ nên chờ đợi thêm để hành động theo những gì bản thân cho là khả nghi. Chú muốn tôi hãy quên Garret đi, trở về nhà, ở bên cạnh mẹ, và tiếp tục cuộc sống hàng ngày. Bố tôi sẽ được tìm thấy thôi, nhưng quan trọng là tôi sẽ cư xử một cách thật bình thường và không làm bất cứ điều gì theo cảm tính. Cuộc tìm kiếm ban đầu từ Telford được mở rộng phạm vi tới LA ngay lập tức, nhưng dù sao đi nữa cũng không hề có bằng chứng nào của việc ai đó chơi khăm, đến thời điểm hiện tại có 2 tờ giấy cùng với một bức ảnh dường như được chính tay nạn nhân thực hiện một cách tự nguyện, sớm muộn gì cũng sẽ gây khó khăn cho những kẻ - đã biết bố tôi từ trước - chiếm lấy những thứ chúng muốn Tôi cá là Gregory sẽ theo vụ này tới cùng, nhưng chú ấy đang có với vô số trở ngại, và tôi có cảm giác những hi vọng của mình cũng dần tắt. Trong vòng 1 giờ người ta tìm ra rằng không ai đi bằng máy bay tới California dưới tên bố tôi vào cuối tuần trước cả. Nhưng dù gì thì, ông cũng xuất hiện ở đó rồi.Tối hôm đó, từ sở cảnh sát, tôi đi bộ qua trung tâm thành phố tới điểm xe bus gần nhất, chờ ở đó vài phút rồi lại đi tiếp. Tôi cần phải đi bộ, để giải tỏa cũng như sắp xếp lại những suy nghĩ của mình. Trên quãng đường đó, tôi cần ở một mình, không muốn ai nhìn thấy, đơn giản chỉ để bình tâm lại. Đó là một buổi tối mùa xuân ấm áp. Tôi chẳng chú ý gì đến xe cộ xung quanh, hay dòng người đang đi lại trên đường, mặc dù ngay khi đi tới một con phố im ắng hơn, tôi lại sợ hãi, cảm giác như mình đã bị ai đó phát hiện và theo dõi. Tôi cần được bao bọc xung quanh bởi nhiều người, ngụy trang lẫn vào đám đông. Rẽ vào Đại lộ Marcol, tôi tiếp tục đi bộ khoảng 2 cây rưỡi nữa, tới thẳng trường Telford, giải bóng đá vô địch tiểu bang đang diễn ra ở đó, là trận giữa trường Telford với Severn Grove, bắt đầu hồi 7h30. Chắc phải có đến cả nghìn người, và trong một khoảnh khắc nào đó, tôi được chìm vào sự hỗn loạn ồn ào vô thưởng vô phạt của đám đông, cho tới khi hoàn toàn xốc lại được tinh thần.
Từ cách đó 2 dãy nhà, tôi nghe được ban nhạc Telford đang chơi một bài nhạc cũ của David Bowie theo bản phối riêng, ánh sáng rực rỡ bao phủ những ngôi nhà trong khu dân cư cạnh trường. Ở đây, bóng đá có sức hút hơn nhiều so với bóng bầu dục, với đội nhà giành vô địch liên bang 2 năm liên tục, được rất nhiều người coi trọng. Khi đến nơi, tôi trả 3 đô tiền vé vào cửa ở cái thềm gạch ngắn trước mặt tiền có chức năng như bàn lễ tân rồi đi vào cái gọi là "sân vận động". Thực sự thì chỉ có 2 dãy ghế kim loại rẻ tiền ở hai bên sân bóng lầy lội, bảng tỉ số ở đầu bên này, đối diện có một mô đất cao, nơi mấy đứa nhóc sẽ tụ tập và xem trận đấu chẳng mất đồng nào.Tôi chọn khán đài phía đông, nơi phân nửa chỗ ghế đã có người ngồi, rồi lại leo ra phía sau hơn 20 hàng nữa để có thể hoàn toàn biến mất trong đám đông. Trận đấu chỉ vừa mới vào hiệp hai, nhưng hầu như lúc đó tôi không để tâm đến điều này, mặc dù đã cố tập trung và gạt bỏ những âm thanh ồn ào của nó ra khỏi đầu. Cả ngôi trường, u ám và có gì đó rợn người, toàn bộ khoảng trời phía trên sáng rực từ nguồn ô nhiễm ánh sáng bên trong thành phố. Lúc đó là 8h40. Xung quanh tôi, cuộc đời của những con người này chỉ còn hơn 20 phút ở trên trái đất này thôi, để xem nốt trận đấu, trò chuyện, cổ vũ cho bạn bè và con cái của họ. Cho tới sau này, tôi mới biết, một người bạn của mình, người đáng lẽ sau này sẽ ở cùng phòng với tôi sau khi lên Đại học vào tháng 9 tới, đang ngồi đối diện ngay phía bên kia, chỗ khán đài phía tây. Nó cũng là một trong hai người, sau đêm đó, thi thể được tìm thấy một cách không còn nguyên vẹn.
#The holeĐội Severn Grove vừa ghi thêm bàn thắng thứ hai, gần nhưng không còn cửa cho trường Telford lặp lại chức vô địch, cùng khi đó tôi nhìn thấy Garret trên ngọn đồi bên cạnh khu rừng phía nam, từ điểm nhìn của tôi, nó trông bé tí. Có tầm 15 đến 20 người rải rác quanh đồi, theo dõi trận đấu, và Garret tự bản thân nó khác biệt so với đám đông. Nó đang ngồi xổm, tay để trên đầu gối, đầu cúi xuống không nhìn thấy mặt, như thể đang buồn ngủ. Ngay đó là chiếc balo màu xanh dương thẫm. Tôi nhìn nó không chớp mắt, lòng thầm mong nó ngẩng mặt lên để tôi có thể trông thấy mặt. Chẳng mất nhiều thời gian đắn đo, tôi quyết định sẽ đối mặt với nó. Tôi, thậm chí còn không thấy ngạc nhiên khi phát hiện ra Garret; đôi khi chuyện này cũng dễ hiểu thôi. Như thể đó là định mệnh. Trong khi đám đông đang xì xào than thở về trận đấu, tôi đứng bật dậy, mắt vẫn không rời Garret. Nó không hề cử động. Tôi bước ra khỏi khán đài, đi tới hàng ghế đầu để xuống thẳng sân, rồi bắt đầu tiến về phía ngọn đồi. Hiện giờ tôi đang cách nó gần 30m, nhưng còn phải đi vòng qua hàng rào quanh sân, thế nên để đi tới đó phải mất vài phút nữa.
Ngay khi vừa xuống khỏi khán đài, tôi thấy Garret ngẩng đầu lên, hướng về phía sân vận động. Nó, theo những gì tôi quan sát được, bắt đầu đứng dậy từ từ. Dường như nó cũng có linh cảm là tôi đang lại gần và có một chút phản ứng lại. Tối nay nó mặc quần bò, cùng với một chiếc áo dài tay màu nâu sẫm. Ở cự li gần với nó nhất, là một cặp nam nữ đang, chỉ cách khoảng 3m, đang uống gì đó trong cốc giấy, không hề hay biết Garret đang ở phía sau mình. Lúc đang tiếp tục bước tới, tôi bắt đầu thấy Garret cho tay vào trong balo, lôi ra một con dao, rất to và dài, phần lưỡi ước chừng phải đến 50 phân, dạng như một thanh kiếm cỡ nhỏ. Ngay lập tức, tôi co chân lên bứt tốc. Một chuyện gì đó kinh khủng đang đến gần lắm rồi. Garret vung lưỡi dao lên, cầm chặt bằng hai tay, đặt ngang ngực. Tôi hét lên gần như khóc: "Hey!" lặp lại nhiều lần những mong mọi người xung quanh kịp nhìn thấy. Cuối cùng cũng có ai đó phản ứng lại, một người đàn ông hói ở cạnh đó. Lão ta bắt đầu đứng lên những vẫn nhìn trân trân ra vẻ không hiểu nổi mình đang chứng kiến chuyện gì. Chạy qua hết hàng rào, tôi đến được chân đồi khi Garret đang bắt đầu đẩy phần mũi dao đó vào ngực. Tôi nghe thấy có tiếng người hét lên từng đằng xa, ai đó trên khán đài có lẽ đã nhìn thấy những gì tôi thấy. Cuộn băng ghi lại thảm họa ngày hôm đó đã được phục hồi, nhưng chưa bao giờ được công bố rộng rãi, nhưng vào năm ngoái, sau khi cầu xin Gregory Gurganus, chú ấy đã cho tôi xem, toàn bộ khung cảnh từ lúc bắt đầu tới khi gần kết thúc. Đoạn phim đó được Nick Cheadle, một trợ lí huấn luyện viên bóng đá ghi lại, lúc đó ông đang ngồi ở hàng ghế thứ năm, ở khán đài phía Đông, từ đó có thể quan sát trận đấu với điểm nhìn bao quát hơn. Đó không phải bản ghi hình chính thức của trận đấu, nên chiếc camera bị quay qua quay lại rất nhiều. Khi nhận ra đám đông xung quanh trở nên hỗn loạn và thấy mọi người chỉ về sườn đồi, ngay lập tức ông chuyển hướng camera về phía đó và bắt được cảnh Garret Markish đang phủ phục với lưỡi dao đã cắm được khoảng 1 phần tư vào ngực. Khi xem đoạn băng, bạn sẽ thấy máy quay chỉ ghim cảnh đó trong vòng 2 giây, rất run rẩy, rồi lại quay về phía sân bóng, bởi vì ngay lúc đó một tiếng hét thất thanh phát ra từ phía ấy, như thể sắp có biến ở đó. Trong khi cầu thủ hai đội đang dừng lại để đá phạt từ vòng tròn trung tâm, thì mặt đất bỗng tách ra. Không một tiếng động, sự nứt gãy hoàn toàn diễn ra trong im lặng, và sau đó người ta nhìn thấy từ dưới vết nứt một cầu thủ của bên Severn Grove đang cố bò lên, hai tay vùng vẫy trong không khí. Các khe nứt lan ra nhanh chóng từ vòng tròn trung tâm dài gần 40m, tạo ra một cái khe ngày càng to. Nick Cheadle vẫn cố giữ yên camera một cách phi thường.Cùng lúc đó ở trên đồi, cứ mỗi khi Garret Markish cắm lưỡi dao ngập sâu hơn vào da, thì khe nứt dưới sân bóng lại càng lan rộng. Trong đoạn phim, không có một sự ồn ào nào chen ngang, không một tiếng gào thét vọng lại. Chỉ có tiếng ầm ầm của chân người dẫm lên sàn kim loại khi tất cả đám đông xung quanh Nick Cheadle bắt đầu bỏ chạy khỏi khán đài, ngay cả Nick cũng bắt đầu di chuyển, vẫn tiếp tục quay phim tới tận khi tính mạng thực sự bị đe dọa. Bạn có thể nhìn thấy trên băng hình hai cầu thủ Telford đầu tiên, những người đã bắt đầu chạy trối chết ra đường biên ở phía xa, sa vào vào bóng đen chết chóc ngay khi cái hố ngày một bành trướng nuốt chửng hoàn toàn phần sân. Họ rơi vào đó, khi cái hố đã rộng chừng hơn 200 mét vuông. Và rồi đến lúc Garret đâm lút cán lưỡi dao vào ngực, tốc độ nở to của cái hố lại nhanh gấp đôi. Những tiếng la hét hầu như lấn át toàn bộ âm thanh trong đoạn băng khi ngày càng có nhiều người rớt xuống hố sâu, kéo theo đó là những đám mây bụi bốc lên mù mịt. Cảnh cuối cùng mà bạn thực sự xem được, là cái hố mở rộng về hướng Tây, thẳng tới khán đài ở hướng đó. Đó cũng là khi cảnh phim bắt đầu rung lắc liên tục vì người đàn ông cầm máy quay cũng từ bỏ luôn chuyện ghi hình để chạy thục mạng với chiếc camera vẫn đang trên tay, vẫn còn nghe được tiếng thở dồn dập, những câu như 'Oh my God, oh my God' lắp bắp lặp lại liên tục. Quay lại hiện thực lúc đó, khi ngừng chạy, tôi gần như đã tới chỗ Garret và hòa vào đám đông bất lực nhìn thảm họa xảy ra trước mắt. Những người đang đứng ở đường biên phía xa kia không kịp chạy, phút chốc biến mất vào trong hố đen, tiếp đó là bên dưới khán đài, nơi có cả hơn trăm người đang mắc kẹt, không làm cách nào để xuống được mặt đất. Trước mắt tôi là cảnh mọi người cố nhảy ra khỏi đó một đầy tuyệt vọng, nhưng cả khán đài ọp ẹp ngay lập tức đổ sập vào trong hố, kéo theo những thứ ở trên đó. Lại một đám bụi và mảnh vụn khổng lồ nữa. Lạc giữa những tiếng la hét là tiếng kim loại rổn rảng khi bị hút vào. Nhưng người bị bóng đen nuốt chửng, đều rơi xuống độ sâu không tưởng gần 40m. Có rất nhiều người chết vì lao trúng những người rơi xuống trước. Ở bên kia sân bóng, hướng đông, chỗ tôi ngồi trước đó, mọi người tháo chạy tán loạn về phía bãi đỗ xe, người ta chạy nhanh nhất có thể và trên hết, không còn biết chuyện gì đang xảy ra trên Trái Đất này. Hầu hết những ai ở trên đồi đều chạy vào rừng, tôi - sau khi đã nhìn về chỗ Garret, đầu gục xuống đất, bất động trong tư thế quỳ, xung quanh nó là một bể máu - cũng chạy về phía đó. Cái hố cũng không mở rộng hơn nữa sau khi nuốt trọn cả khán đài, và tôi nghiệm ra cùng lúc đó Garret cũng chết hẳn. Hai sự việc đồng thời xảy ra chính xác một thời điểm, chắc chắn là như thế.
#"For every grave there is a feeding, for every tomb there is a feast"Tôi chạy theo mọi người vào khu rừng tối tăm, chạy nhanh hết sức có thể, nhìn thấy những bà mẹ, những ông bố và cả những học sinh khác xung quanh, bị cành cây cào xước, họ vấp ngã, gào khóc. Chúng tôi ra tới đường Bottomford trong vòng hai phút, với cảm giác dường như ra đến đây là an toàn rồi, mọi người bắt đầu dừng lại, để nghỉ ngơi và tập hợp. Người ta ôm lẫn nhau rồi hớt hải lôi điện thoại di động ra. Một học sinh nữ gào lên với người khác rằng John đã bị bỏ lại trên khán đài, John không bao giờ quay về được nữa, và người con gái đang bị cô ta bù lu bù loa an ủi: 'Tớ biết, tớ biết mà, mọi chuyện ổn cả rồi'. Tôi ngoái lại, nhìn qua những cái cây. Ánh sáng chói lòa từ phía đó càng lúc càng mờ đi bởi một đám mây bụi khổng lồ đang bốc lên, che luôn cả những ngôi sao ở phương bắc. Trường Telford vẫn sừng sững ở đó, hiện diện như một cục bướu đen thui dưới bầu trời. Cái hố ngừng nở to ra khi chỉ còn cách trường vài chục mét. Garret Markish đã sống không đủ lâu để phá hủy thêm cả ngôi trường.
Hơn một trăm thi thể được đưa lên từ bên dưới hố. Toàn bộ đều là nạn nhân của Garret, mặc dù sẽ chẳng có ai đủ khả năng để chứng minh. Tôi biết, Gregory biết, và cả ngay cả là bố tôi, người vừa trở về một tháng sau cuộc thảm sát, xuất hiện trước hiên nhà vào một buổi sáng. Mẹ tôi phát hiện ra ông đang ngủ trên cái ghế đặt ngoài đó, và khi được bà đánh thức, ông không hề có chút kí ức nào về 2 tháng vừa qua, cũng không hề nhớ bất kì ai trong chúng tôi khi trải qua giai đoạn hoảng loạn ban đầu kéo dài vài tuần. Ông bị giảm mất 18kg, cùng với một vết bỏng lớn chí mạng sau lưng. Có rất nhiều, rất nhiều người nghi ngờ Garret đứng sau tất cả vụ này – vụ Kirk Neavitt bị hành, vụ con chó bị yểm trong cái lọ, và cái đêm tháng 5 kinh hoàng đó. Toàn bộ số sách về vụ này đều được cho in, trong đó có 1 cuốn của một giáo viên trường Telford. Các kĩ sư và nhà địa chất sẽ cho là những mạch nước ngầm cũng như những vết đứt gãy địa chất có thể gây ra những vết nứt bất thường trên trái đất, nhưng tất cả mọi người ở Telford đều tin chắc một điều, Garret Markish là một con quỷ. Không ai biết những người nuôi nấng Garret, mà chắc chắn họ cũng sẽ không bao giờ hiểu được nó, tin theo hướng nào. Họ chuyển ra khỏi thành phố từ lâu, không ai tìm thấy họ nữa. Họ cũng cho phép cảnh sát lục soát phòng của Garret sau khi nó chết, nhưng không tìm thấy thứ gì đáng ngờ. Người ta cho rằng nó đã xóa sạch dấu vết, phá hủy mọi thứ ngoại trừ những vật tầm thường nhất, vài ngày trước khi tự sát. Cái dao – vũ khí của nó đêm hôm đó được xác minh có nguồn gốc từ một tiệm cầm đồ trong thành phố. Không có gì đặc biệt hay bất thường về thứ đó cả. Khoảng thời gian tôi học hết năm nhất, trường Telford đổi tên thành Bellfavor, mở cửa đón học sinh trở lại. Chuyện này là bố gọi điện kể cho tôi. Giờ ông nghỉ hưu rồi; nhưng thực ra bố tôi đã không đi làm kể từ sau hôm xuất hiện trở lại trước hiên nhà. Giờ ông vẫn đang được tiếp tục điều trị, sau 7 năm kể từ cái chết của Garret, với triệu chứng là những cơn ác mộng, những đợt sốt cao bất chợt, hay những lần căng thẳng không có nguyên nhân. Bố tôi cũng từ bỏ luôn ý định tìm hiểu xem cuộc đời mình thực sự diễn ra như thế nào trong khoảng thời gian biến mất sau khi tìm thấy một luật sư, người này khẳng định đã từng trò chuyện với ông trong một công viên ở LA, nơi ông sống qua ngày, trong một trạng thái không được tỉnh táo cho lắm. Những người ở đó chỉ nghĩ ông là một người vô gia cư. Người luật sư này kể lại rằng cứ mỗi khi đi ngang chỗ bố tôi tới chỗ làm, lần nào bố tôi cùng đều lớn tiếng lặp lại một câu vô nghĩa hướng về ông ta. Thi thoảng trong mơ bố tôi cũng bắt gặp câu nói đó. Thậm chí, dường như ông sẽ không bao giờ thôi bị nó ám ảnh. Theo như ông diễn tả, với giọng điệu lả đi bởi cơn đói: "For every grave there is a feeding, for every tomb there is a feast". Những câu từ đó vẫn len lỏi trong tâm trí ông trong khi cả nhà vẫn đều đặn cầu nguyện cho sự trở về bình an của bố. Tối qua, trong căn hộ bé nhỏ của mình ở Chicago, tôi lại ngồi chép lại câu nói kia vào mảnh giấy, rồi từ từ đốt cháy nó trên ngọn nến – một hành động vô nghĩa, vẫn biết như thế, nhưng nó cũng chứng minh được rằng tôi và những nạn nhân còn sống của Garret cần phải làm gì để chôn chặt quá khứ ở nơi sâu thẳm nhất, để không còn phải nghe thấy những tiếng gào thét năm xưa. The end.
#The dream Đêm hôm đó tôi ngủ không được thẳng giấc cho lắm, toàn bị tỉnh giữa chừng. Đến hơn 2h thì tôi quyết định bò dậy, tìm kiếm ít thông tin trên internet, chơi vài ba cái game nào đó. Khi bắt đầu có cảm giác buồn ngủ lại, lúc gần 3h, tôi nghe thấy tiếng cửa chính mở ra rồi đóng lại ở dưới tầng. Vì không chắc lắm ai lại về nhà vào giờ này vào một buổi đêm thứ 5, tôi có đôi chút hoảng sợ. Bố tôi không đi làm về muộn 2 năm nay rồi. Ông em Ben vẫn nghe thấy tiếng đang ngủ từ phòng bên cạnh, cũng chẳng có lí do gì để nó ý đi ra ngoài. Tôi mặc chiếc quần nỉ vào rồi xuống dưới nhà, rồi nhìn thấy bố ở trong bếp, đang tự làm sandwich, người đầm đìa mồ hôi mặc dù thời tiết bên ngoài không thể nào quá 10 độ. Tôi hỏi bố vừa từ đâu về, ông trả lời rằng một người đồng nghiệp cũ vài năm trước của bố tìm ra một manh mối liên quan đến vụ án mà ông đang theo, thế nên ông muốn ra ngoài luôn, tránh bỏ lỡ thời cơ. Ông chỉ kể được với tôi đến đấy. Khoảnh khắc đó, tôi như được khai sáng, và hỏi lại một cách khờ khạo rằng có phải những manh mối đấy có candự tới Garret Markish không. Trong 3 tuần trở lại đây, bố tôi đến nhà Kirk Neavitt 2 lần, hỏi han nhiều hơn, cố gắng tìm ra lời giải cho cái câu mà nó lặp đi lặp lại hàng tá lần: "Rồi tao sẽ tắm máu tất cả". Câu trả lời cho điều tôi vừa hỏi là không, chuyện ông ấy ra ngoài vào đêm đó không liên quan gì cả. Ông kêu mệt, muốn đi ngủ, và bảo rằng sẽ nói chuyện với tôi sau. Tôi lại hỏi sao ông ấy lại đổ mồ hôi nhiều thế, thì ông viện lí do mặc quá nhiều lớp áo thôi. Ông đi lên tầng luôn sau đó, trong lúc đang làm dở cái bánh, như thể không có chút ý niệm nào về việc đang làm. Tôi cũng đi vào giường, nhưng nằm trằn trọc mãi đến sáng. Ngay hôm sau, Garret bị bắt khi vừa ra khỏi nhà để đi bộ đến trường. Bố tôi không tham gia vụ này. Thực ra hôm đấy ông không đi làm. Garret bị cáo buộc một tội hơi kì lạ: "Trộm chó". Bằng chứng cho thấy Garret đã bắt cóc một chú chó của một gia đình sống cách nhà nó vài căn. Tối hôm đó sau khi từ sở Cảnh sát về, bố tôi thừa nhận không biết vụ này. Tôi biết ông nói dối. Một người cả đời chuyên xử lí những kẻ dối trá như ông cuối cùng lại quá ngô nghê để làm ra vẻ thuyết phục người khác rằng mình đang thành thật.Mặc dù biết biết rằng ở trường, chuyện của Garret đã đến tai mọi người, nhưng kì lạ ở chỗ tôi chưa từng nghe ai bàn tàn về vụ đó. Sự im ắng gần như là tuyệt đối, cái tên Garret như thế đã trở thành một thứ cấm kị. Giờ thì tôi tin Garret đã vô tình tác động đến tinh thần tập thể của mọi người bằng cách làm cho chúng tôi có một cảm giác bất an, rằng nếu còn nhắc đến nó, mọi chuyện sẽ càng tệ đi. Nó như một bóng đen bao trùm lên toàn bộ ngôi trường, và tất cả chúng tôi đều muốn coi như nó không tồn tại nữa. Chẳng có gì hay ho khi nói về nó, giống như phần lớn những thằng đáng ghét khác. Thậm chí, mọi thứ về Garret đều gây ra cảm giác khó chịu khi nghĩ đến, và nếu cứ tiếp tục như thế, thì không hay ho chút nào, vậy nên tất cả chúng tôi, giáo viên cũng như học sinh, đều không hé miệng bất cứ một lời. Nhưng chuyện Garret vắng mặt ở trường bằng cách nào đó càng làm tôi lo lắng. Chúng tôi đều biết nó đã bị bắt, nhưng không ai biết chính xác giờ nó đang ở đâu. Tôi không ngừng nghĩ về điều này. Giả sử nếu biết được địa chỉ nhà, tôi sẽ làm một cú lượn lờ xung quanh, ngó nghiêng một cách lịch sự nhất khi đi qua nhà nó, nhỡ đâu lại phát hiện ra nó ở một khung cửa sổ nào đó. Nỗi kinh sợ của tôi mỗi lúc một lớn dần theo từng ngày Garret vắng mặt. Tôi muốn nói với ai đó về linh cảm của mình rằng có một chuyện gì đó kinh khủng lắm sắp xảy đến, về một giấc mơ tôi mơ mình đang đi trên một chuyến tàu ở đâu đó trong sa mạc, cùng với tất cả bạn bè trong lớp đang ngồi xung quanh, khi đang đi ngang một vùng đất tăm tối, và rồi thầy Bush xuất hiện ở hành lang với cây rìu trên tay. Ông cố trấn tĩnh mọi người, trong khi đang cố ngăn Garret làm đoàn tàu trật bánh ra khỏi đường ray và giết chết tất cả. Ông bảo cách tốt nhất mà tôi giúp được bây giờ, là cố gắng giải mã dấu ấn trên cơ thể nó, rồi chỉ vào vết xăm có hình người mặc áo choàng đen dang tay cầm cây đèn bão. Lúc tôi nói với thầy không biết phải làm điều đó như thế nào, ổng giận giữ đổ hết mọi tội lỗi cho tôi, và rồi, cả toa tàu ngập trong máu. Trong bóng tối, ông đưa cho tôi cây rìu, rồi bảo tôi tự mà lo liệu. Sau khi tỉnh dậy khỏi giấc mộng đó, lần đầu tiên sau nhiều năm, tôi bật khóc vì sợ.
#The lost Thứ 6, ngày 30/4/2004, một ngày trước khi bố tôi biến mất. Cả tối hôm đó tôi ở nhà Mike Beck, bên dưới hầm, giúp nó lắp hoàn chỉnh mô hình đoàn tàu, vài tuần một lần hai đứa sẽ chơi trò này. Bọn tôi mở nhạc lên, và thư giãn với những thú vui không bao giờ có điểm dừng. Bố mẹ nó đang ở đầu kia thành phố. Chơi được khoảng 1 tiếng rưỡi, đến tầm hơn 9 giờ một chút, thì mất điện. Bị mắc kẹt trong bóng tối, chúng tôi cười lên đầy lo lắng. Mike đi lên nhà tìm đèn pin, còn tôi chờ ở dưới, rồi nó nhìn qua cửa sổ trong phòng khách và nhận ra quanh khu này chẳng có nhà nào mất điện cả. Đúng thế thật. Âm thanh duy nhất ngoài kia là của con chó nhà hàng xóm, một con chó săn Labrador hung dữ, sủa ầm ĩ, thường không phải kiểu sủa báo động, nhưng vẫn ấn tượng với tôi đến tận sau này. Tôi nghĩ cả hai đứa nên ra ngoài xem có nhóm người nào đang ở ngoài đó không. Vậy là chúng tôi ra khỏi nhà, nhìn trái nhìn phải. Chẳng có gì hết. Lúc đi vào, Mike nghĩ đến việc gọi cho bố mẹ để nói họ không cần vội về làm gì cả. Kể từ lúc sinh em bé, đây là lần đầu tiên họ ra ngoài chơi. Santa bé bỏng ở nhà với người trông trẻ. Cuối cùng thì nó quyết định không gọi. Lúc đó là 20 phút từ thời điểm mất điện.
Chẳng biết phải làm gì, chúng tôi lại đi xuống hầm, Mike lục tung lên tìm nến. Rồi một chuyện tiếp theo xảy đến. Chúng tôi đi qua phòng giặt là, luồn lách đến chỗ bình nước nóng và hộp cầu chì. Nhìn vào bên trong hộp cầu chì, bọn tôi thấy từng cái công tắc một ở vị trí bị ngắt, đồng loạt, như thể bị ai đó gạt xuống cùng lúc. Lần lượt, Mike gạt hết công tắc lên, đèn lại sáng khắp nhà. Problem solved. Nó hỏi tôi có biết cầu chì hoạt động như nào không, kiểu như có bao giờ tất cả công tắc đồng thời bị ngắt chứ không phải một hai cái như thế không. Tôi không chắc. Đang mải nghĩ thì tôi bắt gặp khuôn mặt nó - có vẻ như giờ không bận tâm lắm về chuyện đấy nữa, Mike đưa ngón tay ra dấu im lặng. Nó nói: "Tao vừa thấy gì đó ngoài kia". Qua khung cửa sổ tầng hầm bé tí, nó nhìn thấy có đôi chân vừa bước nhanh qua, cách mặt kính khoảng 30cm. Bọn tôi nhanh chóng trở lên nhà, chia nhau ra nhìn khắp các cửa số lớn hơn. Chẳng có gì cả, trong vườn, lối ra vào, hay cả con đường ngoài kia. Bọn tôi lại vòng ra sau nhà, đi vào bếp. Mike căng mắt nhìn về phía cửa sau. Nó sững lại. Cánh cửa nhà kho ở góc vườn đã bị ai đó mở ra. Nó không nhớ nối có ai lại để cái cửa đó mở như thế, nhưng điều đó cũng chẳng có nghĩa gì lắm. Nó bảo tôi lùi lại phía tủ lạnh, để từ ngoài nhìn vào không ai thấy hai đứa đang đứng ở đó. Chúng tôi đứng nhìn cái nhà kho đó 1 lúc lâu, với một tầm nhìn khá giới hạn chỉ đủ để nhìn thấy những gì Mike vừa bảo: cánh cửa bị mở hé ra, không quá 30 phân. Không có thứ gì đang động đậy ngoài kia cả. Vài phút trôi qua, Mike càng lúc càng tin trong nhà kho đang có người. Tôi muốn gọi cảnh sát, nhưng nó lắc đầu. Nó muốn chờ thêm một lúc. Tôi vặc lại rằng có chắc lúc nãy dưới hầm nó nhìn thấy có người không, nó quả quyết với tôi đến 90%. Là chín mươi phần trăm. Bọn tôi chôn chân ở đó gần 10 phút, rồi quyết định sẽ ra ngoài. Giả như mà có điều gì không hay ho lắm xảy ra lúc đang lại gần nhà kho, bọn tôi sẽ gọi cảnh sát. Mike ngập ngừng định bật đèn nhưng lại sợ làm hiên nhà sáng lên, cuối cùng nó cũng dứt khoát bật công tắc. Phần bóng tạo ra bởi ánh đèn làm cho phía cuối sân chỗ nhà kho càng tối hơn. Chúng tôi mở cửa sau và ló đầu ra,. Mike khư khư trên tay cái búa lấy từ ngăn kéo, còn tôi cầm đèn pin. Đầu tiên bọn tôi mạo hiểm đi hẳn ra ngoài nhưng cũng không vượt quá hiên nhà. Mike hét lớn: "Ai đang ở ngoài kia?" Chỉ có tiếng chó sủa đáp lại. Lại chờ. Chẳng có gì nhúc nhích. Từ phần sân sau trở lên phía trên là đất khai thác, mỗi người dân ở đây đều sở hữu từ 1 đến 2ha, với rất ít cây cối xung quanh. Một số ít những ngôi nhà trên kia có treo đèn trên cửa sổ, số còn lại thì không.Cửa nhà kho hé ra chắc chỉ tầm hơn 20 phân. Mike chửi thề trong tiếng thở, mà hơn hết, tôi nghĩ, trong chính sự sợ hãi của nó. Bọn tôi đi lên bãi cỏ rồi chậm rãi tiến lại tới khi cách nhà kho tầm 3m, vẫn chẳng thể nhìn được tí gì vào bên trong qua khe cửa đang hé. Quái dị làm sao, trong bóng tối, cái nhà kho bỗng nhiên giống như lối đi vào bên trong hầm mộ nào đó một cách kì lạ. Cuối cùng, Mike bước tới, bất chợt mở toang cửa, hét lớn: "Hey!" Mấy cái bản lề cửa lung lay toàn bộ, kêu kẽo kẹt; sau đó một tiếng "rắc" bén tai vang lên, cánh cửa bị kéo ra đến mức tối đa, rồi bật trở lại, gần như đóng luôn cho tới khi tôi nhào tới chặn bằng 1 tay. Tôi đã chuẩn bị tinh thần lao vào, nhưng dưới luồng sáng của đèn pin, trong nhà kho lúc ấy chẳng có gì ngoài đồ làm vườn, mấy chồng báo, và vài cái xe đạp.Sau đó, chúng tôi tản ra, khảo sát một vài chỗ quanh căn nhà, trên đường phố, nhưng vẫn chẳng có kết quả gì. Lúc gặp lại trong nhà, bọn tôi lại kiểm tra phòng giặt là và khoảng trống quanh hộp cầu chì. Có lẽ chỉ là một mạch điện nào đó bị quá tải, dẫn tới mất điện và không có gì đến mức ám ảnh thái quá như vậy. Mike vẫn không muốn phiền tới bố mẹ, nó xem xét mọi chuyện trong im lặng, không nói một lời. Phần thời gian còn lại tối hôm đó, cho tới khi bố mẹ của Mike về, bọn tôi cùng ngồi xem phim trên lầu, giăng đèn khắp nhà, khóa hết cửa nẻo, volume bật to, cố không nghĩ về những chuyện vừa rồi. Mike tiễn tôi ra cửa lúc 11h30. Những thứ mà nó nghĩ ra được - nó nói – có thể hơi kì cục, rằng có khi đêm đó Garret đã xuất hiện ở nhà nó. Nó kể với tôi cảm giác khi chạm mắt Garret vào ngày rủ thằng đấy tham gia nhóm làm phim, cái cảm giác khi biết mình vừa làm một điều hết sức không nên, như thể đã đi quá giới hạn mà nó hoàn toàn không nhận ra, và rồi đột nhiên Garret mặc định nó như một sự đe dọa. Nhưng nếu chỉ với một nghi ngờ vô căn cứ như thế, nó sẽ không báo cảnh sát nữa. Thành ra lúc này bọn tôi chẳng biết phải làm gì. Rốt cuộc thì, Mike có thực sự nghĩ Garret bằng cách nào đó đã đột nhập vào nhà không? Với động cơ gì, kế hoạch như thế nào? Khi tôi lái xe qua 4 dãy nhà trên đường về, đường phố không một bóng người. Giấc ngủ kéo dài vài ba tiếng tối hôm đó cũng là giấc ngủ dài nhất tôi có được trong những tháng tiếp theo, khi một sự kinh dị hữu hình bắt đầu xuất hiện.Sáng hôm sau, em trai tôi tìm thấy một mảnh giấy bố tôi để lại trên bàn ăn. Hôm đó là thứ bảy, Ben đi xuống bếp ăn sáng trước khi đến Lều Phát Thanh trong trung tâm thương mại để làm việc, và nó thấy một mảnh giấy được gấp bên dưới lọ rắc muối. Dòng chữ quá khổ quen thuộc của bố tôi: "Gặp cả nhà sau nhé!" viết bằng bút bi. Hai đứa chúng tôi chẳng ai nghĩ gì, vì thường vào thứ bảy bố rất hay đến mấy cửa hàng gia dụng từ sớm để chuẩn bị cho vài dự án cải thiện nhà ở đại loại thế. Nhưng rồi buổi trưa ông cũng không về, điện thoại di động càng không gọi được. Đến đêm, khi vẫn không nhận được tin gì từ bố, mẹ tôi gọi điện cầu cứu Gregory Gurganus – đồng nghiệp của bố tôi, trong sự hoảng sợ. Nhưng ông cũng không biết bố tôi đang ở đâu. Nửa đêm, mẹ tôi phải làm một liều thuốc ngủ mới thiếp đi được, để không bị suy sụp bởi lo âu và stress. Những đồng nghiệp của bố tôi ở sở Cảnh sát, tất cả họ đều biết cuộc sống hạnh phúc của ông bên gia đình suốt 19 năm qua, thế nên chẳng có lí do gì để họ làm khó chúng tôi, ngay lập tức hành động và làm hết khả năng để tìm ông ấy.Nửa đêm, tôi nằm trằn trọc, sự hoài nghi về việc bố tôi có một cuộc sống bí mật, hay một nguyên nhân sâu xa nào đó khiến ông biến mất mà bọn tôi không tài nào hiểu nổi, đã dần bị thay thế bởi một giả thiết có vẻ khả thi hơn, là bố tôi đã ra ngoài làm nhiệm vụ, chỉ đạo một vụ án nào đó mà gia đình không hay biết, rồi bị bắt cóc, hoặc sát hại. Chưa bao giờ cả nhà phải lo lắng cho bố vì những nguy hiểm trong nghề, mặc dù những chuyện như thế hoàn toàn có thể. Đến đêm ngày chủ nhật, mẹ tôi đã phải nhờ tới thuốc kê đơn để kiểm soát cơn hoảng loạn, tôi và em mình cũng chẳng ăn ngủ được gì. Tin nhắn bố tôi để lại đã được mang đi phục vụ điều tra với sự thận trọng ở mức cao nhất, hình ảnh mẩu giấy đó ám ảnh mạnh mẽ tới chúng tôi.Vì các thám tử phải điều tra sâu hơn về vụ mất tích của bố, nên hai ngày thứ 2 và thứ 3 tôi không đến trường. Đến thứ 4, tôi tìm thấy một bức thư trong hòm thư trước nhà, và gần như phát ngất khi chạm vào cái phong bì đó, cái phong bì có chữ viết của bố tôi. Dấu bưu điện trên đó được đóng ở Los Angeles, California, cách đây gần 3 nghìn cây số, từ thứ 7 tuần trước, nghĩa là nó phải được gửi cùng với thời điểm bố tôi biến mất. Giấu không cho mẹ biết, tôi mở bao thư và lôi ra một tờ giấy màu cam cùng một bức ảnh. Nội dung trên tờ giấy y hệt với lúc đầu: "Gặp cả nhà sau nhé" chấm than. Tôi nhìn chằm chằm bức ảnh trong vài phút, lắc nhẹ. Kiểu ảnh Polaroid, hình như là bố tôi tự chụp. Ông đang đứng trước một cửa hàng nào đó vào một ngày nắng rực rỡ. Bố tôi cười với camera một cách dễ chịu, ấm áp. Ông mặc chiếc áo bóng đá mang số 32, cũng là món quà sinh nhật tôi tặng từ 6 tuần trước.#...Cho đến tận sau này, tôi mới dám khẳng định Garret Markish chính là kẻ đã mang bố tôi đi, hoặc cao siêu hơn, là khiến ông tự nghĩ rằng đã tới lúc thoát khỏi công việc, gia đình và cả cuộc sống, vì ông đã khui ra quá nhiều bí mật của nó trong cuộc điều tra tối muộn ngày hôm đó. Tôi hình dung Garret đã làm điều đó chỉ với một câu chú giản đơn, thậm chí 1 từ, hoặc phất tay một cái, triệu hồi một năng lực nào đó mà không ai tưởng tượng nổi. Nó là một con quỷ dữ. Tôi tới tìm Gregory Gurganus, và trong căn phòng nhỏ hình vuông nơi bố tôi và chú ấy từng làm việc với nhau, tôi nói ra hết những cảm giác của mình và kể cho chú về những hoài nghi của tôi một cách riêng tư. Mẹ và em tôi đều không có ở đó. Lúc đó là 7 giờ tối, ngày 5/5. Tôi dành ra hẳn nửa tiếng đồng hồ để bộc bạch những suy nghĩ của mình với chú – người bạn của gia đình tôi suốt 10 năm qua. Có một lí do chính đáng, chú nói, lí do chú không thể nói với tôi về những gì liên quan đến Garret mà 2 người đã điều tra ra; trong lúc sự việc diễn ra càng lúc càng căng thẳng, không một ai có thể hình dung được gần đây họ đã phải đi bao xa để tìm hiểu về quá khứ của Garret. Trong mấy tuần vừa rồi, không ai trong số hai người được chợp mắt một phút nào.
Ngay lúc đó, chú ấy cũng hứa với tôi, là người ta sẽ tìm được bố tôi, còn sống, ông cũng không hề nghĩ rằng có lẽ nên chờ đợi thêm để hành động theo những gì bản thân cho là khả nghi. Chú muốn tôi hãy quên Garret đi, trở về nhà, ở bên cạnh mẹ, và tiếp tục cuộc sống hàng ngày. Bố tôi sẽ được tìm thấy thôi, nhưng quan trọng là tôi sẽ cư xử một cách thật bình thường và không làm bất cứ điều gì theo cảm tính. Cuộc tìm kiếm ban đầu từ Telford được mở rộng phạm vi tới LA ngay lập tức, nhưng dù sao đi nữa cũng không hề có bằng chứng nào của việc ai đó chơi khăm, đến thời điểm hiện tại có 2 tờ giấy cùng với một bức ảnh dường như được chính tay nạn nhân thực hiện một cách tự nguyện, sớm muộn gì cũng sẽ gây khó khăn cho những kẻ - đã biết bố tôi từ trước - chiếm lấy những thứ chúng muốn Tôi cá là Gregory sẽ theo vụ này tới cùng, nhưng chú ấy đang có với vô số trở ngại, và tôi có cảm giác những hi vọng của mình cũng dần tắt. Trong vòng 1 giờ người ta tìm ra rằng không ai đi bằng máy bay tới California dưới tên bố tôi vào cuối tuần trước cả. Nhưng dù gì thì, ông cũng xuất hiện ở đó rồi.Tối hôm đó, từ sở cảnh sát, tôi đi bộ qua trung tâm thành phố tới điểm xe bus gần nhất, chờ ở đó vài phút rồi lại đi tiếp. Tôi cần phải đi bộ, để giải tỏa cũng như sắp xếp lại những suy nghĩ của mình. Trên quãng đường đó, tôi cần ở một mình, không muốn ai nhìn thấy, đơn giản chỉ để bình tâm lại. Đó là một buổi tối mùa xuân ấm áp. Tôi chẳng chú ý gì đến xe cộ xung quanh, hay dòng người đang đi lại trên đường, mặc dù ngay khi đi tới một con phố im ắng hơn, tôi lại sợ hãi, cảm giác như mình đã bị ai đó phát hiện và theo dõi. Tôi cần được bao bọc xung quanh bởi nhiều người, ngụy trang lẫn vào đám đông. Rẽ vào Đại lộ Marcol, tôi tiếp tục đi bộ khoảng 2 cây rưỡi nữa, tới thẳng trường Telford, giải bóng đá vô địch tiểu bang đang diễn ra ở đó, là trận giữa trường Telford với Severn Grove, bắt đầu hồi 7h30. Chắc phải có đến cả nghìn người, và trong một khoảnh khắc nào đó, tôi được chìm vào sự hỗn loạn ồn ào vô thưởng vô phạt của đám đông, cho tới khi hoàn toàn xốc lại được tinh thần.
Từ cách đó 2 dãy nhà, tôi nghe được ban nhạc Telford đang chơi một bài nhạc cũ của David Bowie theo bản phối riêng, ánh sáng rực rỡ bao phủ những ngôi nhà trong khu dân cư cạnh trường. Ở đây, bóng đá có sức hút hơn nhiều so với bóng bầu dục, với đội nhà giành vô địch liên bang 2 năm liên tục, được rất nhiều người coi trọng. Khi đến nơi, tôi trả 3 đô tiền vé vào cửa ở cái thềm gạch ngắn trước mặt tiền có chức năng như bàn lễ tân rồi đi vào cái gọi là "sân vận động". Thực sự thì chỉ có 2 dãy ghế kim loại rẻ tiền ở hai bên sân bóng lầy lội, bảng tỉ số ở đầu bên này, đối diện có một mô đất cao, nơi mấy đứa nhóc sẽ tụ tập và xem trận đấu chẳng mất đồng nào.Tôi chọn khán đài phía đông, nơi phân nửa chỗ ghế đã có người ngồi, rồi lại leo ra phía sau hơn 20 hàng nữa để có thể hoàn toàn biến mất trong đám đông. Trận đấu chỉ vừa mới vào hiệp hai, nhưng hầu như lúc đó tôi không để tâm đến điều này, mặc dù đã cố tập trung và gạt bỏ những âm thanh ồn ào của nó ra khỏi đầu. Cả ngôi trường, u ám và có gì đó rợn người, toàn bộ khoảng trời phía trên sáng rực từ nguồn ô nhiễm ánh sáng bên trong thành phố. Lúc đó là 8h40. Xung quanh tôi, cuộc đời của những con người này chỉ còn hơn 20 phút ở trên trái đất này thôi, để xem nốt trận đấu, trò chuyện, cổ vũ cho bạn bè và con cái của họ. Cho tới sau này, tôi mới biết, một người bạn của mình, người đáng lẽ sau này sẽ ở cùng phòng với tôi sau khi lên Đại học vào tháng 9 tới, đang ngồi đối diện ngay phía bên kia, chỗ khán đài phía tây. Nó cũng là một trong hai người, sau đêm đó, thi thể được tìm thấy một cách không còn nguyên vẹn.
#The holeĐội Severn Grove vừa ghi thêm bàn thắng thứ hai, gần nhưng không còn cửa cho trường Telford lặp lại chức vô địch, cùng khi đó tôi nhìn thấy Garret trên ngọn đồi bên cạnh khu rừng phía nam, từ điểm nhìn của tôi, nó trông bé tí. Có tầm 15 đến 20 người rải rác quanh đồi, theo dõi trận đấu, và Garret tự bản thân nó khác biệt so với đám đông. Nó đang ngồi xổm, tay để trên đầu gối, đầu cúi xuống không nhìn thấy mặt, như thể đang buồn ngủ. Ngay đó là chiếc balo màu xanh dương thẫm. Tôi nhìn nó không chớp mắt, lòng thầm mong nó ngẩng mặt lên để tôi có thể trông thấy mặt. Chẳng mất nhiều thời gian đắn đo, tôi quyết định sẽ đối mặt với nó. Tôi, thậm chí còn không thấy ngạc nhiên khi phát hiện ra Garret; đôi khi chuyện này cũng dễ hiểu thôi. Như thể đó là định mệnh. Trong khi đám đông đang xì xào than thở về trận đấu, tôi đứng bật dậy, mắt vẫn không rời Garret. Nó không hề cử động. Tôi bước ra khỏi khán đài, đi tới hàng ghế đầu để xuống thẳng sân, rồi bắt đầu tiến về phía ngọn đồi. Hiện giờ tôi đang cách nó gần 30m, nhưng còn phải đi vòng qua hàng rào quanh sân, thế nên để đi tới đó phải mất vài phút nữa.
Ngay khi vừa xuống khỏi khán đài, tôi thấy Garret ngẩng đầu lên, hướng về phía sân vận động. Nó, theo những gì tôi quan sát được, bắt đầu đứng dậy từ từ. Dường như nó cũng có linh cảm là tôi đang lại gần và có một chút phản ứng lại. Tối nay nó mặc quần bò, cùng với một chiếc áo dài tay màu nâu sẫm. Ở cự li gần với nó nhất, là một cặp nam nữ đang, chỉ cách khoảng 3m, đang uống gì đó trong cốc giấy, không hề hay biết Garret đang ở phía sau mình. Lúc đang tiếp tục bước tới, tôi bắt đầu thấy Garret cho tay vào trong balo, lôi ra một con dao, rất to và dài, phần lưỡi ước chừng phải đến 50 phân, dạng như một thanh kiếm cỡ nhỏ. Ngay lập tức, tôi co chân lên bứt tốc. Một chuyện gì đó kinh khủng đang đến gần lắm rồi. Garret vung lưỡi dao lên, cầm chặt bằng hai tay, đặt ngang ngực. Tôi hét lên gần như khóc: "Hey!" lặp lại nhiều lần những mong mọi người xung quanh kịp nhìn thấy. Cuối cùng cũng có ai đó phản ứng lại, một người đàn ông hói ở cạnh đó. Lão ta bắt đầu đứng lên những vẫn nhìn trân trân ra vẻ không hiểu nổi mình đang chứng kiến chuyện gì. Chạy qua hết hàng rào, tôi đến được chân đồi khi Garret đang bắt đầu đẩy phần mũi dao đó vào ngực. Tôi nghe thấy có tiếng người hét lên từng đằng xa, ai đó trên khán đài có lẽ đã nhìn thấy những gì tôi thấy. Cuộn băng ghi lại thảm họa ngày hôm đó đã được phục hồi, nhưng chưa bao giờ được công bố rộng rãi, nhưng vào năm ngoái, sau khi cầu xin Gregory Gurganus, chú ấy đã cho tôi xem, toàn bộ khung cảnh từ lúc bắt đầu tới khi gần kết thúc. Đoạn phim đó được Nick Cheadle, một trợ lí huấn luyện viên bóng đá ghi lại, lúc đó ông đang ngồi ở hàng ghế thứ năm, ở khán đài phía Đông, từ đó có thể quan sát trận đấu với điểm nhìn bao quát hơn. Đó không phải bản ghi hình chính thức của trận đấu, nên chiếc camera bị quay qua quay lại rất nhiều. Khi nhận ra đám đông xung quanh trở nên hỗn loạn và thấy mọi người chỉ về sườn đồi, ngay lập tức ông chuyển hướng camera về phía đó và bắt được cảnh Garret Markish đang phủ phục với lưỡi dao đã cắm được khoảng 1 phần tư vào ngực. Khi xem đoạn băng, bạn sẽ thấy máy quay chỉ ghim cảnh đó trong vòng 2 giây, rất run rẩy, rồi lại quay về phía sân bóng, bởi vì ngay lúc đó một tiếng hét thất thanh phát ra từ phía ấy, như thể sắp có biến ở đó. Trong khi cầu thủ hai đội đang dừng lại để đá phạt từ vòng tròn trung tâm, thì mặt đất bỗng tách ra. Không một tiếng động, sự nứt gãy hoàn toàn diễn ra trong im lặng, và sau đó người ta nhìn thấy từ dưới vết nứt một cầu thủ của bên Severn Grove đang cố bò lên, hai tay vùng vẫy trong không khí. Các khe nứt lan ra nhanh chóng từ vòng tròn trung tâm dài gần 40m, tạo ra một cái khe ngày càng to. Nick Cheadle vẫn cố giữ yên camera một cách phi thường.Cùng lúc đó ở trên đồi, cứ mỗi khi Garret Markish cắm lưỡi dao ngập sâu hơn vào da, thì khe nứt dưới sân bóng lại càng lan rộng. Trong đoạn phim, không có một sự ồn ào nào chen ngang, không một tiếng gào thét vọng lại. Chỉ có tiếng ầm ầm của chân người dẫm lên sàn kim loại khi tất cả đám đông xung quanh Nick Cheadle bắt đầu bỏ chạy khỏi khán đài, ngay cả Nick cũng bắt đầu di chuyển, vẫn tiếp tục quay phim tới tận khi tính mạng thực sự bị đe dọa. Bạn có thể nhìn thấy trên băng hình hai cầu thủ Telford đầu tiên, những người đã bắt đầu chạy trối chết ra đường biên ở phía xa, sa vào vào bóng đen chết chóc ngay khi cái hố ngày một bành trướng nuốt chửng hoàn toàn phần sân. Họ rơi vào đó, khi cái hố đã rộng chừng hơn 200 mét vuông. Và rồi đến lúc Garret đâm lút cán lưỡi dao vào ngực, tốc độ nở to của cái hố lại nhanh gấp đôi. Những tiếng la hét hầu như lấn át toàn bộ âm thanh trong đoạn băng khi ngày càng có nhiều người rớt xuống hố sâu, kéo theo đó là những đám mây bụi bốc lên mù mịt. Cảnh cuối cùng mà bạn thực sự xem được, là cái hố mở rộng về hướng Tây, thẳng tới khán đài ở hướng đó. Đó cũng là khi cảnh phim bắt đầu rung lắc liên tục vì người đàn ông cầm máy quay cũng từ bỏ luôn chuyện ghi hình để chạy thục mạng với chiếc camera vẫn đang trên tay, vẫn còn nghe được tiếng thở dồn dập, những câu như 'Oh my God, oh my God' lắp bắp lặp lại liên tục. Quay lại hiện thực lúc đó, khi ngừng chạy, tôi gần như đã tới chỗ Garret và hòa vào đám đông bất lực nhìn thảm họa xảy ra trước mắt. Những người đang đứng ở đường biên phía xa kia không kịp chạy, phút chốc biến mất vào trong hố đen, tiếp đó là bên dưới khán đài, nơi có cả hơn trăm người đang mắc kẹt, không làm cách nào để xuống được mặt đất. Trước mắt tôi là cảnh mọi người cố nhảy ra khỏi đó một đầy tuyệt vọng, nhưng cả khán đài ọp ẹp ngay lập tức đổ sập vào trong hố, kéo theo những thứ ở trên đó. Lại một đám bụi và mảnh vụn khổng lồ nữa. Lạc giữa những tiếng la hét là tiếng kim loại rổn rảng khi bị hút vào. Nhưng người bị bóng đen nuốt chửng, đều rơi xuống độ sâu không tưởng gần 40m. Có rất nhiều người chết vì lao trúng những người rơi xuống trước. Ở bên kia sân bóng, hướng đông, chỗ tôi ngồi trước đó, mọi người tháo chạy tán loạn về phía bãi đỗ xe, người ta chạy nhanh nhất có thể và trên hết, không còn biết chuyện gì đang xảy ra trên Trái Đất này. Hầu hết những ai ở trên đồi đều chạy vào rừng, tôi - sau khi đã nhìn về chỗ Garret, đầu gục xuống đất, bất động trong tư thế quỳ, xung quanh nó là một bể máu - cũng chạy về phía đó. Cái hố cũng không mở rộng hơn nữa sau khi nuốt trọn cả khán đài, và tôi nghiệm ra cùng lúc đó Garret cũng chết hẳn. Hai sự việc đồng thời xảy ra chính xác một thời điểm, chắc chắn là như thế.
#"For every grave there is a feeding, for every tomb there is a feast"Tôi chạy theo mọi người vào khu rừng tối tăm, chạy nhanh hết sức có thể, nhìn thấy những bà mẹ, những ông bố và cả những học sinh khác xung quanh, bị cành cây cào xước, họ vấp ngã, gào khóc. Chúng tôi ra tới đường Bottomford trong vòng hai phút, với cảm giác dường như ra đến đây là an toàn rồi, mọi người bắt đầu dừng lại, để nghỉ ngơi và tập hợp. Người ta ôm lẫn nhau rồi hớt hải lôi điện thoại di động ra. Một học sinh nữ gào lên với người khác rằng John đã bị bỏ lại trên khán đài, John không bao giờ quay về được nữa, và người con gái đang bị cô ta bù lu bù loa an ủi: 'Tớ biết, tớ biết mà, mọi chuyện ổn cả rồi'. Tôi ngoái lại, nhìn qua những cái cây. Ánh sáng chói lòa từ phía đó càng lúc càng mờ đi bởi một đám mây bụi khổng lồ đang bốc lên, che luôn cả những ngôi sao ở phương bắc. Trường Telford vẫn sừng sững ở đó, hiện diện như một cục bướu đen thui dưới bầu trời. Cái hố ngừng nở to ra khi chỉ còn cách trường vài chục mét. Garret Markish đã sống không đủ lâu để phá hủy thêm cả ngôi trường.
Hơn một trăm thi thể được đưa lên từ bên dưới hố. Toàn bộ đều là nạn nhân của Garret, mặc dù sẽ chẳng có ai đủ khả năng để chứng minh. Tôi biết, Gregory biết, và cả ngay cả là bố tôi, người vừa trở về một tháng sau cuộc thảm sát, xuất hiện trước hiên nhà vào một buổi sáng. Mẹ tôi phát hiện ra ông đang ngủ trên cái ghế đặt ngoài đó, và khi được bà đánh thức, ông không hề có chút kí ức nào về 2 tháng vừa qua, cũng không hề nhớ bất kì ai trong chúng tôi khi trải qua giai đoạn hoảng loạn ban đầu kéo dài vài tuần. Ông bị giảm mất 18kg, cùng với một vết bỏng lớn chí mạng sau lưng. Có rất nhiều, rất nhiều người nghi ngờ Garret đứng sau tất cả vụ này – vụ Kirk Neavitt bị hành, vụ con chó bị yểm trong cái lọ, và cái đêm tháng 5 kinh hoàng đó. Toàn bộ số sách về vụ này đều được cho in, trong đó có 1 cuốn của một giáo viên trường Telford. Các kĩ sư và nhà địa chất sẽ cho là những mạch nước ngầm cũng như những vết đứt gãy địa chất có thể gây ra những vết nứt bất thường trên trái đất, nhưng tất cả mọi người ở Telford đều tin chắc một điều, Garret Markish là một con quỷ. Không ai biết những người nuôi nấng Garret, mà chắc chắn họ cũng sẽ không bao giờ hiểu được nó, tin theo hướng nào. Họ chuyển ra khỏi thành phố từ lâu, không ai tìm thấy họ nữa. Họ cũng cho phép cảnh sát lục soát phòng của Garret sau khi nó chết, nhưng không tìm thấy thứ gì đáng ngờ. Người ta cho rằng nó đã xóa sạch dấu vết, phá hủy mọi thứ ngoại trừ những vật tầm thường nhất, vài ngày trước khi tự sát. Cái dao – vũ khí của nó đêm hôm đó được xác minh có nguồn gốc từ một tiệm cầm đồ trong thành phố. Không có gì đặc biệt hay bất thường về thứ đó cả. Khoảng thời gian tôi học hết năm nhất, trường Telford đổi tên thành Bellfavor, mở cửa đón học sinh trở lại. Chuyện này là bố gọi điện kể cho tôi. Giờ ông nghỉ hưu rồi; nhưng thực ra bố tôi đã không đi làm kể từ sau hôm xuất hiện trở lại trước hiên nhà. Giờ ông vẫn đang được tiếp tục điều trị, sau 7 năm kể từ cái chết của Garret, với triệu chứng là những cơn ác mộng, những đợt sốt cao bất chợt, hay những lần căng thẳng không có nguyên nhân. Bố tôi cũng từ bỏ luôn ý định tìm hiểu xem cuộc đời mình thực sự diễn ra như thế nào trong khoảng thời gian biến mất sau khi tìm thấy một luật sư, người này khẳng định đã từng trò chuyện với ông trong một công viên ở LA, nơi ông sống qua ngày, trong một trạng thái không được tỉnh táo cho lắm. Những người ở đó chỉ nghĩ ông là một người vô gia cư. Người luật sư này kể lại rằng cứ mỗi khi đi ngang chỗ bố tôi tới chỗ làm, lần nào bố tôi cùng đều lớn tiếng lặp lại một câu vô nghĩa hướng về ông ta. Thi thoảng trong mơ bố tôi cũng bắt gặp câu nói đó. Thậm chí, dường như ông sẽ không bao giờ thôi bị nó ám ảnh. Theo như ông diễn tả, với giọng điệu lả đi bởi cơn đói: "For every grave there is a feeding, for every tomb there is a feast". Những câu từ đó vẫn len lỏi trong tâm trí ông trong khi cả nhà vẫn đều đặn cầu nguyện cho sự trở về bình an của bố. Tối qua, trong căn hộ bé nhỏ của mình ở Chicago, tôi lại ngồi chép lại câu nói kia vào mảnh giấy, rồi từ từ đốt cháy nó trên ngọn nến – một hành động vô nghĩa, vẫn biết như thế, nhưng nó cũng chứng minh được rằng tôi và những nạn nhân còn sống của Garret cần phải làm gì để chôn chặt quá khứ ở nơi sâu thẳm nhất, để không còn phải nghe thấy những tiếng gào thét năm xưa. The end.
Bạn đang đọc truyện trên: LoveTruyen.Me