LoveTruyen.Me

Thanh Cung 13 Trieu Full

Hồi 153 Giết Đông Hậu, đuổi Cung Vương




Lại nói Ý phi bị Tây thái hậu mắng chửi, trong lòng đã thấy sợ lắm. Nàng tin rằng đại hoạ sẽ tới với mình. Đêm đó nàng không sao ngủ được, bối rối lo âu suốt cả năm canh. Sáng sớm tinh sương, nàng đã vội dậy, lo đi trang điểm.




Nàng không thấy báo tin tức gì lạ, bèn thẳng bước tới cung Nhân Thọ để hầu hạ Tây thái hậu khi bà dậy. Tây thái hậu thấy nàng bước tới, chẳng nói lời nào. Ý phi đã thấy yên tâm.




Nàng đợi cho thái hậu toạ triều, lúc đó mới trở về phòng mình nghỉ ngơi. Trước khi về, nàng đã cẩn thận để lại một con cung nữ ở cung thái hậu để nghe ngóng tình hình.




Mãi đến khi Tây thái hậu bãi triều về cung, xem tập sớ của ông Đồng Hoà, cho gọi Vinh Lộc vào cung mắng chửi một phen thậm tệ, con cung nữ của Ý phi nghe rõ mọi chuyện, vội chạy về kể lại cho nàng biết. Ý phi tự nhủ tội này khó thoát nếu để bị lôi tới Tôn nhân phủ thẩm vấn thì còn mặt mũi nào, chi bằng chết trước đi là hơn. Nghĩ vậy, nàng bèn cho mấy con cung nữ ra khỏi phòng hết rồi đóng cửa lại. Nàng quỳ xuống đất, nhìn thẳng lên không lạy mấy lạy, cởi chiếc dây lưng, treo cổ lên bạo cửa tự tử chết.




Từ Hy thái hậu bị Từ An giận trách, lòng đầy tức giận.




Bà nghe tin Ý phi đã chết, liền bảo:




- Tụi chúng tự thân tác nghiệt, ta cũng chẳng làm gì được hơn…




Miệng vừa nói vừa chỉ mặt Vinh Lộc, bà quay sang nói với Tử An thái hậu:




- Hắn tuy là cháu ruột tôi, nhưng hắn bị ông sư phó tham tấu, tôi cũng chẳng che chở được cho hắn. Xin tỷ tỷ đem hắn đi, thẩm vấn nghiêm ngặt, tội đáng giết thì cứ giết, tôi quyết chẳng dám nói chi nửa lời! Tôi làm đến thái hậu, chỉ tại tên súc sinh này mà đến nỗi mang tiếng với bọn thần tử. Chúng cho rằng tôi che chở tư thân, mặt mũi tôi coi như không còn gì nữa!




Nói tới đây, Tây thái hậu cầm không nổi nước mắt. Từ An thái hậu bèn truyền gọi Tổng quản tới, đem tập sớ ông sư phó và cả Vinh Lộc sang bên hình bộ để thẩm vấn cho rõ ràng. Viên Hình bộ đại thần biết Lộc là cháu ruột của Tây thái hậu, bố bảo cũng không dám phết trọng tội. Y chi viết có bốn chữ "Vĩnh bất tự dụng" (không dùng vĩnh viễn) vào tập sớ rồi gửi lên cho Lưỡng cung thái hậu. Tây thái hậu muốn tránh hiềm nghi, để mặc Đông thái hậu phê hai chữ "Y nguyên" (chuẩn y lời đề nghị). Thế là Vinh Lộc bị cách tuột hết chức tước, quanh quẩn ở nhà xua gà cho vợ, không được phép lui tới nơi cung cấm để thăm hỏi Tây thái hậu nữa.




Từ ngày đó, Tây thái hậu mất hẳn hai tên thủ túc thân tín hầu hạ. Càng cảm thấy cô đơn hiu quạnh, bà càng rầu rĩ. Tâm sự lại không biết nói cùng ai, bà đâm thù Đông thái hậu đến xương tuỷ. Đêm ngày, bà mưu tính với Lý Liên Anh để mong trả hết oán thù.




Một hôm, Tây thái hậu bảo Lý Liên Anh:




- Lâu nay, Đông thái hậu cố ý moi móc những khuyết tật của ta để làm hại ta. Nếu ta không tìm được kế nào giết bà ta để trả hận, thử hỏi ta làm gì còn tự do nữa chứ?




Ý nghĩ của Tây thái hậu thì thế, nhưng ý nghĩ của Đông thái hậu lại khác.




Đông thái hậu cho rằng lâu nay Tây thái hậu bị nhiều vố mất mặt ắt thế nào cũng sửa đổi, đồng thời sẽ cảm ơn ân đức của mình. Bà biết Tây thái hậu mất Ý phi và Vinh Lộc, hoàn cảnh thực cô đơn hiu quạnh. Bởi thế, bà ngày ngày qua chơi nói chuyện, mua vui cho Tây thái hậu. Từ Hy bề ngoài vẫn ngọt ngào tiếp đãi, nhưng thâm tâm chỉ chờ có cơ hội thuận lợi là hạ độc thủ để báo thù.




Ngày thường, Đông thái hậu rất thích ăn quà vặt. Bất cứ đi qua chỗ nào, nếu thấy con cung nữ bưng mâm bánh đi bên cạnh, thế nào bà cũng miệng thì nói chuyện tay thì nhót bánh ăn.




Tây thái hậu biết được thói này, liền nảy sinh độc kế. Ít hôm sau, đúng vào ngày triệu kiến các vị quân cơ đại thần, Từ An thái hậu dậy rất sớm, trái lại Từ Hy lại dậy muộn.




Từ An thái hậu bèn tới Tây cung đợi để cùng đi. Từ Hy vừa trang điểm, vừa trò chuyện với Từ An thái hậu. Bỗng Tây thái hậu nhớ ra là Đông thái hậu chưa ăn sáng, vội gọi bọn cung nữ đem mâm bánh ra cho bà.




Đông thái hậu nhìn mâm bánh, thấy chiếc nào làm cũng sạch sẽ ngon thơm. Có cái mang hình bát tiên, có cái lại làm theo hình con hạc, con hươu, Đông thái hậu vừa khen đẹp, vừa ăn đến mấy cái. Tây thái hậu bảo bà:




- Trong cung mới có một tên bếp khá thạo nghề. Hắn làm luôn một lúc hơn trăm chiếc bánh dâng lên ăn ngon hết sức. Tỷ tỷ thích thì để bảo cung nữ đưa về bên đó ít chiếc ăn chơi.




Nói đoạn, Tây thái hậu liền gọi cung nữ bưng từ trong phòng ra một mâm bánh lớn, rồi bảo nó đưa trước về cung cho Đông thái hậu.




Buổi chầu có Cung thân vương Dịch Hân, Đại học sĩ Tả Tôn Đường, thượng thư Vương Văn Thiều, Hiệp biện đại học sĩ Lý Tảo Hồng. Hôm đó đúng vào ngày mồng mười tháng ba năm Tân Hợi, niên hiệu Quang Tự.




Chiếu theo luật lệ nơi cung đình, khi Thái hậu lâm triều, phải rủ bức rèm che khuất, bọn đại thần quỳ phía ngoài để tâu bày mọi việc. Nhưng hôm đó, Tây thái hậu có vẻ bực mình vì phải nói chuyện qua rèm, nên bà ra lệnh cuốn rèm lên. Nhờ đó, bọn thần tử vào chầu mới được nhìn gương mặt hai bà thái hậu.




Trong khi bọn đại thần tâu bày mọi việc, Cung Thân Vương nhờ có cặp mắt tinh sáng, nhìn thấy sắc mặt Đông Thái hậu hết sức tươi vui, đặc biệt là nói rất nhiều. Một điểm nữa khiến Vương phải để ý là hai má bà đỏ ửng, y như người say rượu.




Cuộc họp hôm đó bàn tới việc Pháp xâm lăng Việt Nam, thành thử kéo dài mãi tới quá chiều mới được tạm nghỉ ăn trưa để rồi lại tiếp tục họp cho tới suốt buổi chầu. Mãi tới bốn giờ mới có được một quyết định. Quyết định đó là Lưỡng cung thái hậu hạ dụ xuống cho Bắc dương đại thần Lý Hồng Chương tìm biện pháp đối phó, đồng thời hạ lệnh cho các viên tuần phủ, tổng đốc các tỉnh miền Duyên Hải, Duyên Giang, Duyên Biên phải phòng bị hết sức cẩn thận.




Chỉ ý đó vừa thảo xong, thì Từ An thái hậu bỗng thấy đầu choáng mắt hoa, ngồi không vững nữa. Thế là bà phải vội vã về cung và lên giường ngủ ngay.




Bên ngoài bọn đại thần kéo nhau ra triều phòng còn ngồi lại bàn tán thêm một lúc nữa rồi mới tử từ rút khỏi cửa ngọ môn. Giữa lúc đang tà tà trên đường về, bỗng một tin dữ làm cho bọn đại thần đành phải quay lại. Đó là tin nội đình cấp báo Đông thái hậu băng hà, truyền cho bọn đại thần không được giải tán, tức tốc vào cung bàn tính đại sự. Bọn họ nghe tin, mặt mặt nhìn nhau, mắt trợn ngược, miệng há hốc.




Trong số, Cung thân vương là người có nhiều liên hệ với Đông thái hậu nhất, bất giác oà lên khóc. Cả bọn lo khuyên giải Cung thân vương, rồi rủ nhau chạy vội vào tẩm cung của Đông thái hậu.




Bước chân vào phòng, bọn đại thần thấy Đông thái hậu ngồi trên một chiếc ghế thấp có bọn cung nữ đang xúm nhau lại tiểu liệm cho bà. Nhìn thấy tình cảnh đó, không một ai không nhỏ lệ. Căn phòng lạnh lẽo. Người ta chỉ nghe Tây thái hậu cất tiếng than thở một mình:




- Đông thái hậu từ lâu vẫn mạnh, gần đây cũng chẳng thấy đau yếu, ấy thế mà sao lại bỏ tôi ra đi kìa?




Miệng bà vừa nói xong, người bà đã ném mạnh xuống cạnh thây ma, rồi bỗng oà lên khóc, khóc nức, khóc nở, khóc thảm thiết nước mắt giàn giụa, y như khóc một người chị, người em ruột mình thiệt!




Bọn đại thần thấy Tây thái hậu khóc lóc thương tâm bèn hè nhau quỳ xuống đất một loạt, lựa lời khuyên giải bà và xin bà cho chỉ dụ để lo việc tang ma.




Chiếu theo luật lệ nơi cung đình, khi hoàng đế, hoàng hậu mất, thường phải giao đơn thuốc cho quân cơ đại thần xem nghiệm lại. Nhưng trường hợp này, Đông thái hậu chết mau lẹ chưa kịp gọi ngự y bắt mạch cho đơn thì làm gì có đơn nào mà xem. Đó là việc đầu tiên phải cho qua. Đến việc thứ hai. Cũng chiếu thể lệ trong cung cấm, khi có một bà hậu, bà phi chết phải đi gọi ngay thân nhân vào cung để lo việc tiểu liệm. Nhưng đối với lần này, Tây thái hậu đã có chủ ý nào đó, thì việc cho người đi gọi thân nhân của Đông thái hậu trong dòng họ Nữu Cô Lộc làm gì có. Bọn đại thần tuy rành luật lệ đấy, nhưng không thấy Tây thái hậu nêu ra, bố bảo anh nào dám đề cập tới. Thế là việc khâm liệm Đông thái hậu, duy chỉ có mấy con cung nữ đảm nhận mà thôi.




Thấy việc khâm liệm đã xong, Tây thái hậu cho gọi tất cả bọn quận cơ đại thần vào thư phòng của mình, bàn định nguỵ tạo tờ di chiếu của Đông thái hậu theo ý định của bà.




Việc thảo di chiếu được giao cho Lý Hồng Chương cấp tốc thực hiện để bịt mắt bưng tai thiên hạ. Tờ di chiếu nội dung như sau: "Ta tuy đức mỏng nhưng vâng sách mệnh cửa Văn Tông Hiển hoàng đế nên nhậm vị nơi cung hồ, đến khi Mục Tông Nghi hoàng đế kế nghiệp giữ ngôi báu, thì ngài đối với ta một lòng hiếu tử thuần đốc, thừa hoan phụng dưỡng, lúc nào cũng thành. Hiện nay hoàng đế nắm giơ đại thông, đích thân tới vấn an, một niềm thành hiếu. Hơn nữa, từ khi ngài lên ngôi đến nay, điển học siêng năng, đức độ trau dồi, tâm ta rất lấy làm an ủi vui mừng. Nhờ vậy, ngài đêm ngày chăm lo việc nước, tuy rằng thời sự khó khăn nhưng thân thể may được luôn luôn kháng kiện, sự di dưỡng lại được đầy đủ nên quyết hưởng hà linh muôn tuổi. Chẳng may, ngày mồng chín tháng này ta bỗng nhuốm bệnh nhẹ, có hoàng đế hầu hạ thuốc thang đêm ngày vấn an, lo sao cho ta mau lành bệnh. Không ngờ qua ngày mồng mười, bệnh thế chuyển nặng, rồi đến giờ tuất tinh thần dần dần tán loạn, khó thể ở đời. Ta năm nay đã bốn mươi lăm; mẫu nghi thiên hạ cũng có cả ba chục năm. Ta cũng đâu có nhiều lần được ơn thánh điển, quyền vị cao sang, chẳng còn phải ham muốn gì nữa. Tiếp sau đó, lúc hoàng đế gặp cơn biển lớn, lòng ta vô cùng thương cảm. Song ta vốn là người nhân chúa, một mình mà quan bệ tới cả toàn dân thiên hạ, cho nên ta đành phải cố nén bớt nỗi đau thương nghĩ ngợi, lấy việc nước làm trọng. May thay, nhờ được sự trông nom dạy bảo của Từ Hi đoan hữu khang di chiếu dự trong thành hoàng thái hậu nên văn vô bá quan trong ngoài ai cũng làm tròn chức vụ, cùng lo việc cai trị. Thấy vậy, ta thực lấy làm khen lắm. Còn tang phục thì phải tuân theo cựu lễ Hoàng đế chỉ phải giữ phục hai mươi bảy ngày là có thể trừ bỏ. Lễ lớn đã thông thể sơ sót thì các lễ nhỏ ắt cũng không coi thường. Tuy nhiên ta vốn người dám kiệm ước phác thực, cho nên bất cứ việc gì có liên quan tới điển lễ, câm không được phung phí khiến tổn hại công quỹ, đến như việc xây cất trang hoàng hậu sự di vật, cũng phải nên kiệm ước, phải biết tiệc vật lực mới được. Đó chính là cái sở nguyện của ta. Bởi thế, nay ta hạ chiếu dụ, cho toàn thể các cấp tuân hành".




Thế là chỉ một đạo di chiếu ấy bịt hết tết cả một nghi án động trời.




Gia đình của Hiếu Trinh hoàng thái hậu dù có nghi cũng chẳng dám làm gì. Và cũng từ đó, Từ Hi thái hậu ở trong cung độc đoán độc hành, chẳng còn chút e ngại điều gì.




Đông thái hậu chết rồi, việc thứ hai phải làm của Tây thái hậu là trừ khử cho bằng được Cung thân vương Dịch Hân.




Vương vốn là một vị tướng già nhất trong số các vương gia đại thần. Vương lại còn là một cố mệnh đại thần, thường hợp lực với Đông thái hậu để chống Tây thái hậu. Cho nên con người ấy nếu còn ở trong triều thì Tây thái hậu làm sao có thề tự ý tư vi được. Bởi thế, Tây thái hậu ngày đêm bàn tính với Lý Liên Anh tìm kế cách chức vương. Phải cái Cung thân vương vào địa vị quân cơ đã lâu, các đại thần ai cũng đều một lòng giúp đỡ Vương giải quyết mọi việc hết sức công chính, từ lâu chưa xảy ra một điều gì sơ sót. Cho nên việc cách chức để tống vương về vườn, đâu có phải chuyện dễ.




Mừng thay cho Tây thái hậu đã có dịp vô cùng thuận lợi! Số là qua năm sau, Pháp và Tàu đánh nhau. Tây thái hậu liền đổ liệt cho Cung thân vương nghị hoà thất sách, trùm hết cả tội lỗi lên đầu thân vương. Rồi chụp lẹ lấy cơ hội, bà hạ một đạo dụ cách tuột hết chức tước của bọn đồng đảng với Đông thái hậu, chỉ tung có một mẻ lưới là hết sạch! Đạo dụ đó nội dung như sau: "Hiện nay sức nước yếu kém, mà thời thế càng khó khăn, chính sự nhiều đổ vỡ, khiến dân chưa được cứu nguy. Bởi thế mọi việc trong ngoài cần phải có người tài hiền điều khiến. Chốn quân cơ là nơi chủ chốt, dùng người trông coi hành chính trong ngoài. Lúc đầu, bọn Cung thân vương còn cẩn thận giúp rập, nhưng về sau chỉ quanh quẩn để bảo vệ vinh hoa cho mình. Mấy năm gần đây tước lộc ngày càng cao, lòng tư kỷ càng ngày càng tệ. Mỗi lần trong triều có việc cần hỏi ý kiên thì lại cố chấp thành kiến, chẳng chịu đem hết khả năng phụng thành. Đã thế nhiều lần lại còn nói ngang, hoặc có khi lấp liếm che đậy, hoặc có khi ươn hèn làm biếng, hoặc có khi bảo khó không làm, hoặc có khi bảo chẳng biết ai. Gia pháp của bản triều ta là nghiêm ngặt. Nếu cứ ăn cắp quyền để làm loạn chính trị như đời trước thì chẳng những trong lòng chẳng dám mà pháp luật chẳng dung tha.




Chỉ cần nêu ra mấy điểm như trên, cũng đủ biết lỗi lầm chẳng phải là ít và nhẹ. Nếu cứ để vậy, không sửa đổi, mặc kệ buông trôi, thì sao gọi được là vâng lời thực hiện di mưu của liệt thánh. Nay mai, hoàng đế đích thân coi việc chính trị, biết lấy gì để sáng soi mọi lẽ. Rút cục nếu lấy việc xét đoán nhất nhất phê phán thì lúc đó quyệt không thể nói tới chuyện thân quý cũng không thể ỷ y vào điều kỳ cựu. Triều đình dù có khoan hồng đại lượng đến đâu đi nữa cũng chẳng chấp nhận được. Nói tới điều đó, kẻ có lương tâm ai lại không chạnh lòng trắc ẩn. Cung thân vương Dịch Hân, Đại học sĩ Bảo Quân vào triều tuy đã lâu, nhưng trách bị vẫn phải nghiêm khắc.




Có nghĩ tới cảnh hai người một là đau yếu nhiều bệnh, hai là tuổi đã quá già cho nên vẫn nhớ đến công lao thuở trước mà cho được toàn đoạn đường chót của đời mình. Dịch Hân được gia ân giơ quyền thế tập thân ương, thưởng lộc toàn bổng thân vương, nhưng chấm dứt hết mọi công tác, đồng thời trừ bỏ cái ơn cho thêm hai bổng, cho ở nhà dưỡng bệnh. Bảo Quân thì cho giữ nguyên phẩm hàm, được về hưu trí. Hiệp biện đại học sĩ, Lại bộ thượng thư Lý Hồng Tảo làm việc trong nội đình đã nhiều năm, vốn có nhiều kinh nghiệm lại lắm kiên thức nên để cho tiếp tục làm việc. Binh bộ thượng thư Cảnh Liêm chỉ có thể tuỳ việc giao phó, vấn đề kinh tế y không có sở trường, cho nên truất bỏ hết mọi công tác, giáng xuống hai cấp, sẽ điều dụng sau. Công bộ thượng thư Ông Đồng Hoà phục vụ nơi cung đình, thích đáng ở nhiều việc, nhưng đã lâu không làm được việc gì cũng coi như có lỗi, được gia ân cách chức nhưng lưu nhiệm làm hành tẩu trong cung Dục Khánh, để chứng tỏ sự nâng biệt, đối với bọn vương công đại thần này như vậy, triều đình đã có sự nhận xét và ý định từ lâu.




Biết rằng không còn cách gì khác khuyến cáo, lại sợ rằng lỗi lầm của họ càng nặng, cho nên triều đình mới khiển trách. Nếu ngay từ lúc đầu khi còn nhưng việc nhỏ nhặt tầm thường mà không đàn hặc xét lỗi định tội, giáng cấp những viên đại thần thân phiên, thì rồi đây nội ngoại thần dân không còn biết lấy ai để răn dạy để đem hết lòng trung phụng sự, kiên công lập nghiệp một cách viễn đại nữa. Triều đình sẽ xét cái tâm của ngươi, theo dõi hành động của từng kẻ, nếu thấy lợi ích cho quốc sự thì không có lý do gì mà không dung nạp. Trái lại, nếu thấy gia đình suy tệ, gia phong không có, lấy công làm tư, khuynh loát mọi chuyện, thậm chí phẩm hạnh càng ngày càng ty tiện, làm tay sai cho người để kỳ trung hối lộ tham nhũng, triều đình sẽ lập tức lột trần mọi gian dối giấu nhẹm, xét theo pháp luật để trừng trị chứ nhất định không tha. Nay ban bố thông dụ cho mọi người được biết".




Đạo dụ, lời lẽ úp úp mở mở, căn chẳng đúng đề. Bọn đại thần bị cách chức, ai cũng đều biết đây chỉ là một dịp diệt trừ đối thủ của Từ Hi thái hậu. Anh nào anh nấy tức lắm, nhưng phải cái đây là lời nói rõ ràng của thiên tử trên giấy trắng mực đen, công bố cho bàn dân thiên hạ, biết làm sao được. Thế là cả bọn đành nuốt giận, rút lui ra khỏi chốn quân cơ.




Bọn này vừa bước ra khỏi, thì Tây thái hậu đã chọn một số tay chân thân tín đưa vào quân cơ điền ngay chỗ trống.




Kẻ được chiếu chỉ của Tâm thái hậu chọn đưa vào là Thuần thân vương Dịch Tôn.




Tôn vốn đồng đảng với Tây thái hậu. Thái hậu ngầm bảo Tôn Dục Văn dâng sớ tiến cử Tôn để bổ sung vào quân cơ làm tai mắt cho bà.

Hồi 154 Đàn rắn trong cây cổ thụ




Đáng lý ra Tôn là cha của đương kim hoàng đế thì không được vào quân cơ. Đó là theo quy pháp của tổ tiên Thanh triều. Nhưng đưa Tôn vào quân cơ, là có dụng ý của Tây thái hậu. Để làm việc đó, Tây thái hậu hạ một đạo thýợng dụ nói nơi quân cơ có nhiều việc rất khẩn yếu, cần có Thuần thân vương Dịch Tôn mới giải quyết được. Khi nào hoàng đế trưởng thành, đích thân tham chính, lúc đó sẽ có ý chỉ mới.




Ông Đồng Hoà thấy đạo thượng dụ, cho thế không thể được, liền bảo Tả thứ sử là Thịnh Dục tâu lên quyết liệt tranh đấu.




Thấy Dục cả gan như vậy, bọn Tả thứ sử Tích Quân và Ngự sử Triệu Nhĩ Tốn cũng vội dâng thư lên khuyên can, nói Thuần Thân Vương không nên tham dự vào việc quân cơ.




Từ Hi thái hậu đâu có chịu thua. Bà xuống ngay một đạo dụ mới chỉ vỏn vẹn có bốn chữ: "Ưng vô dung nghị" (chớ có bàn bậy). Bọn đại thần xem xong đành khoanh tay, câm miệng hến, không biết cách nào hơn.




Quang Tự hoàng đế vốn không hợp tính Thuần thân vương. Cha thực của hoàng đế là Dịch Hoàn kia chứ đâu phải Dịch Tôn. Khổ cái là Dịch Hoàn lại bất hoà với Tây thái hậu. Câu chuyện lẹo tẹo giữa bốn người là như vậy.




Khi Quang Tự hoàng đế vào cung, bà phúc tấn, vợ Dịch Hoàn, rất không bằng lòng. Hai bà kể là chị em dâu với nhau.




Bà Phúc tấn này biết tính Tây thái hậu điêu xảo gian quyệt ra sao, cho nên biết rằng con mình nếu để cho Tây thái hậu nuôi dưỡng thì sẽ khổ sở suốt đời. Bởi thế, khi vua Quang Tự bước chân ra khỏi nhà, bà phúc tấn khóc lóc thảm thiết, bảo với mọi người là Tây thái hậu đã giết con bà rồi. Không ngờ lời nói này lại lọt vào tai Tây thái hậu. Từ đó Tây thái hậu ra mặt ghét vợ chồng Dịch Hoàn, và cũng vì vậy nên bà chẳng ưa gì Quang Tự hoàng đế.




Lần này Tây thái hậu lập Quang Tự làm hoàng đế lả có ý trả ơn Dịch Hoàn: đó là thâm tâm của Tây thái hậu. Nhưng ơn gì vậy?




Nguyên lai khi Văn Tông hoàng đế còn sống, đối với Dịch Hoàn rất thân thiết. Anh em hai người thường gặp mặt nhau ở trong cung Văn Tông, có tâm sự gì là thường hay cho Hoàn biết. Việc quan trọng nhất hồi đó là Văn Tông thấy Tây thái hậu tỏ ra một người đàn bà lăng loàn quá sá, không biết an phận mình nên đã có ý phế bỏ địa vị phi tử để tránh chuyện ỷ thế cậy quyền sau này, và thường đem ý này ra bàn với Hoàn. Nhưng Hoàn khuyên can năm ba lần, mong bảo toàn danh vị cho Tây thái hậu. Ấy cũng vì chuyện đó mà Tây thái hậu cảm kích lắm, coi như một cái ơn, nên đưa con trai của Hoàn lên làm vua.




Y tốt của Tây thái hậu buổi đầu là vậy, nhưng không ngờ hai vợ chổng Dịch Hoàn lại không thích thế, thường hay phao lời nói xấu Tây thái hậu. Mặt khác, Quang Tự hoàng đế lại hay chống đối Tây thái hậu. Ngay từ hồi nhỏ hai bên đã có chỗ không hợp tính rồi. Thấy thế, Tây thái hậu lại cho rằng vợ chồng Hoàn ngầm dặn con mình như thế, nên càng đề phòng gắt gao hơn. Bà truyền dụ cho cung môn cấm không được cho phép vợ chồng Dịch Hoàn gặp mặt hoàng đế, chỉ trừ trường hợp có đặc chiếu.




Lại cũng vì cái lệnh khắt khe này, vợ chồng Hoàn càng thâm thù Tây thái hậu. Nhiều lúc nhớ con, hai vợ chồng Hoàn chỉ còn biết ôm nhau khóc ròng mà thôi.




Hồi đó, Quang Tự hoàng đế đã định việc hôn nhân, chọn xong hoàng hậu. Bà hoàng hậu đó là con gái Quế Tường và cũng chính là cháu gái của Tây thái hậu. Tính tình của bà hậu này chẳng khác tính nết Tây thái hậu bao nhiêu. Trớ trêu thay là Quang Tự hoàng đế lại không ưa bà hoàng hậu này, ngài chỉ yêu có một cô tên gọi Cẩn Phi. Cẩn Phi người đã đẹp, tính nết lại thuận hảo, nhu hoà. Quang Tự hoàng đế đã có ý lập người đẹp này làm hoàng hậu, nhưng Tây thái hậu quyết không chịu. Vì thế, cái hố mâu thuẫn giữa hoàng đế và Thái hậu lại còn sâu thêm một tầng nữa.




Bọn cung nhân thái giám, bọn bầy tôi trong ngoài thấy Tây thái hậu không ưa hoàng đế và hai vợ chồng Dịch Hoàn, bèn đặt ra không biết bao điều vu khống đồn đại khắp nơi.




Chúng dựng lên một chuyện động trời. Chúng phao tin ở bên ngoài Tây Vực môn kinh thành, trong Bạch Vân quán, có một vị đạo sĩ tên gọi Động Nguyên. Nguyên có tài lạ là nhìn được rất xa. Đêm nào cũng vậy, Nguyên đứng giữa sân nhìn ra xa, đều thấy trên nóc phủ của Dịch Hoàn luôn luôn có một đám mây phủ kín, trong đám mây có một con rồng vàng lúc ẩn lúc hiện, bay múa trong không gian. Như thể e rằng Dịch Hoàn sẽ là chân mạng Thiên tử, không đề phòng không được.




Tây thái hậu nghe chuyện này, đã không cho là phỉ lý, lại còn lấy làm tin lắm. Thế là bà cho Lý Liên Anh truyền gọi tên đạo sĩ Động Nguyên vào cung, đích thân dò hỏi.




Nguyên liền đáp:




- Phải! Trên nóc nhà có mây phủ, đó đúng là triệu chứng của chân mạng đế vương. Nay Hoàng thái hậu hỏi tới kẻ tiểu đạo xin tới vương phủ xem xét kỹ rồi phúc chỉ sau.




Tày thái hậu chuẩn tấu, bèn phái thêm mấy tên tiểu thái giám nữa, ăn mặc giả làm người thường, đến trước cổng nhà Dịch Hoàn xem xét.




Động Nguyên đạo sĩ gật đầu luôn mấy cái, trong lòng đã có điều minh bạch, vội chạy về kinh tâu lên Thái hậu:




- Trong vưởng phủ có một cây bách già, Văn khí do đỉnh đôi cây cổ thụ đó bốc lên. Nay chỉ cần chặt cây bách đó là phá được đất nhà nọ, có thế mới hết lo ngại.




Tây thái hậu nghe đoạn, truyền thưởng cho Nguyên một số tiền rồi cho về. Sau đó, bà cho bày giá, ngồi trên chiếc xe nhẹ, giảm bớt bọn tuỳ tùng, tức tốc ra khỏi cung, lẳng lặng kéo vào trong phủ đệ của Dịch Hoàn khiến hai vợ chồng Hoàn hoảng hồn bạt vía, vội vàng hè nhau chạy ra nghênh tiếp thánh giá.




Tây thái hậu thấy bộ mặt hớt hải của vợ chồng Hoàn, cười lên hô hố, cầm lấy tay vợ Hoàn nói:




- Bọn mình chị em với nhau, khách khí mà làm gì! Ở trong cung buồn như chấu cắn, tôi tính ra thàm hoa viên nhà muội muội một lát để thưởng thức cái cảnh u nhã nơi đây đó!




Nghe vậy, Dịch Hoàn vội sai người bày tiệc ngay trong vườn hoa để thết đãi. Tây thái hậu vừa uống vừa xem hoa.




Cây bách già mọc ngay giữa vườn hoa, cành lá xum xuê, che kín cả mặt đất, ngọn thì thẳng vút mãi tận mây xanh. Thái hậu nhìn cây bách, miệng tấm tắc khen lấy khen để:




- Trời! Cây bách cao lớn quá nhỉ! Tôi hiện đang xây cất Di Hoà viện, thiếu hẳn mất loại cây gỗ lớn này, thật đáng tiếc?




Dịch Hoàn đứng bên cạnh, tưởng lời nói đó là thật, vội tâu:




- Nếu vậy, thần nguyện xin dâng cây cổ thụ đó lên Lão Phật gia.




Lời nói trúng ý thái hậu, bởi vậy, đợi khi tiệc dùng xong, bà liền cho lệnh bọn thợ mộc trong phủ nhất tề cưa búa chặt ngay. Chẳng bao lâu, cây bách già đã sáu bảy trăm năm đổ xuống cái rầm, nằm sóng sượt trên hoa viện dài đến mấy chục trượng.




Nhưng Tây thái hậu không ngờ khi cây vừa đổ xuống đánh rầm một cái thì bỗng từ trong cây lao vọt ra một đàn rắn to bằng bắp vế đến mấy chục con, mắt đỏ ngầu, vẩy vàng hườm như vàng y, xông bừa ra tứ phía, trông thật khủng khiếp. Một con rắn bự nhất từ trong đàn xông thẳng tới chỗ Thái hậu nhe nanh, cất cao cổ, tính nuốt chửng bà.




Tây thái hậu giật bắn mình, hồn vía lên tận mây xanh, rú lên một tiếng, té ngửa ra sau ghế. Dịch Hoàn cùng Lý Liên Anh, hai người đều đứng cạnh thấy Thái hậu đã ngất xỉu, vội vàng tìm cách đối phó với con rắn. Lý Liên Anh nhảy vội tới ôm lấy Thái hậu, cố ý lấy thân che cho bà tránh con độc xà. Còn Dịch Hoàn lúc này liều mạng với con rắn. Hoàn tay không xông vào, múa tít song quyền, cứ nhè đầu con rắn đấm lia lịa. Vô phúc cho con rắn, trúng một đấm của Hoàn, vật xuống đất, không cất cao được đầu lên như trước nữa.




Đau quá hoá khùng, nó quật ngược cái đuôi lên, quấn ngang bụng Hoàn đến mấy vòng như cái vành rổ. Rắn càng quấn càng chặt. Rắn càng xiết Hoàn càng thấy như tắc thở, Hoàn thở hắt ra ằng ặc… May thay lúc đó, bọn thợ mộc đã dừng tay, nghe la, chạy tới. Thế là cả bọn nhất tề xông vào chia tay nhau ốp con rắn, gỡ tháo vòng xiết cho Hoàn. Mấy phút sau, Hoàn đã thoát vòng xiết của rắn, nhưng lòng bàn chân đã bị rắn đớp cho đến mấy miếng, chất độc đã đủ thì giờ để ngấm vào máu. Hoàn trúng độc, cơ hồ té xỉu.




Lúc này Thái hậu đã được đưa vào trong hoa sảnh. Gia nhân vội đưa Hoàn vào trong sảnh. Mớ choàng mắt Hoàn thấy bóng Thái hậu rung rinh phía trước; nghĩ đến tội mình. Hoàn vội bò mọp xuống đất; dập đầu lia lịa, nói:




- Nô tài tội đáng muôn thác. Để Lão Phật gia phải một phen kinh hoảng, thật là tội của nô tài!




Lúc này, Tây thái hậu đã tỉnh lại, hoàn hồn rồi. Cả một bọn thái giám chạy tung lên như chiếc đèn kéo quân bên cạnh. Anh thì bóp vế, anh thì đấm lưng, anh thì mang nước sâm, anh thì đem bàn đèn, dọc tẩu, hộp thuốc phiện đến cho bà.




Bọn thái giám tung tăng như vậy một hồi lâu, khi khói thơm toả khắp căn phòng thơm phức, Thái hậu mới mở được miệng ra lệnh hồi cung.




Dịch Hoàn lại một phen quỳ mọp trước thềm, đưa tiễn thái hậu ra khỏi cổng phủ. Đợi Thái hậu và đoàn tuỳ tùng ới xa rồi, Hoàn mới lóp ngóp bò dậy, lắc lư bước vào nhà, cho gọi gấp anh thầy lang châm cửu vào phủ châm mấy mũi kim vào đùi, uống luôn một hơi chén thuốc giải độc.




Suốt đêm đó, chất độc hoành hành. Hoàn đau đớn nhức nhối, nhưng rồi ngày hôm sau cũng bớt đau dần, chỉ còn có đầu choáng mắt hoa, tim đập thình thình, tinh thần xem ra hết sức mệt mỏi.




Buổi trưa, đang chờ thang thuốc thứ nhì, bỗng Hoàn thấy Tây thái hậu sai Tiêu ngự y tới phủ chẩn mạch cho. Hoàn vội bày hương án tạ ơn. Chẩn mạch xong, viên ngự y không khai phương, chỉ lấy trong đẫy ra một ít thuốc cho Hoàn uống.




Thế rồi từ đó, viên ngự y tới nhà Hoàn ngày một, chẩn mạch cho Hoàn rồi lại cho uống thuốc chế sẵn, xong ra đi.




Nhưng có điều lạ là từ ngày uống thuốc của viên ngự y thì bệnh Hoàn càng ngày càng nặng thêm…




Trong phủ của Hoàn, tuy có nuôi mấy viên nội ngoại y sư đấy nhưng thấy ngự y tới săn sóc, còn ai dám cho đơn bốc thuốc nữa đâu.




Một hôm Tổng đốc Trực Lệ là Lý Thiếu Thuyên đích thân tới phủ thăm Hoàn. Hoàn thấy mặt Thuyên bỗng ứa nước mắt nói:




- Xem ra bệnh tôi không thể khỏi nổi rồi! Tôi chỉ còn có mỗi "một khối thịt" lưu lại trong cung, khối thịt ấy hiện là hoàng đế của mọi người đó. Tôi chết đi lòng thực không thể yên được. Chỉ mong sao ngài Tổng đốc để ý giùm hoàng thượng nhiều cho.




Nói đoạn Hoàn quay hẳn về phía Thuyên, vòng tay xá một cái thật dài. Thuyên vội vàng hồi tế và nói:




- Vương gia yên tâm. Đạo thần tử, há lại dám bất trung với hoàng thượng? Song, xem ra bệnh tình của Vương gia không có gì gọi là nguy hiểm đâu?




Hai mắt Hoàn lúc đó nhìn không còn rõ nữa. Hoàn thì thào nói:




- Tôi mong được gặp hoàng thượng một lần lắm!




Lý Thiếu Thuyên nghe đoạn, đoán biết Hoàn ý muốn gặp con lắm. Bởi thế sáng sớm ngày mai Thuyên vào triều tâu lên:




- Dịch Hoàn bệnh nguy, có ý muốn gặp đức Kim thượng một lần chót. Đức Kim thượng tính thời chí hiếu, mà thân phụ bệnh tình lại như thế, ý hẳn trong lòng cũng khắc khoải nhớ nhung lo lắng. Vậy mong cầu Hoàng thái hậu nghĩ tình cha con mà cho gặp mặt nhau một lần.




Từ Hi thái hậu xem tờ sớ xong lập tức đem vua Quang Tự cùng tới vương phủ thăm bệnh tình của Hoàn. Hai người vừa tới nơi, giữa lúc Hoàn thần trí lơ mơ mê mẩn. Nhưng vừa được thấy mặt Quang Tự, Hoàn bỗng tỉnh táo lại ngay, vội tụt xuống chân giường bò mọp xuống đất dập đầu kiến giá. Quang Tự hoàng đế tuy tuổi còn nhỏ nhưng phụ tử tình thâm, khi thấy cha bịnh hoạn ốm o gầy còm, bỗng rưng rưng giọt lệ. Sau cuộc viếng thăm, trở về cung Quang Tự hoàng đế còn cho nội giám đem mười cân nhâm sâm, một ngàn lạng vàng về gửi cho cha già bịnh hoạn.




Hồi đó, trong nha môn viên tổng đốc có một vị Thư Khải gia rất rành nghề thuốc. Người nhà tổng đốc nếu có ai đau ốm, đều một tay lão sư gia này trông coi thuốc thang cho cả.




Bởi vậy, Lý tổng đốc liền đưa vị sư gia này tới vương phủ để mong giúp một tay thang trị liệu. Nhưng cái khổ là, theo luật lệ trong cung hồi đó, nếu đã có ngự y chữa trị rồi thì thôi, các y sư khác dù có thần thông quảng đại tới đâu ba đầu sáu tay ghê gớm đến chừng nào đi nữa, cũng phải lo tỵ hiềm mà tránh ngay, ai bảo cũng chẳng dám chẩn bệnh bốc thuốc.




Vị Thư Khải sư gia ở trong vương phủ mấy hôm, chẳng có việc gì làm cả, chỉ thấy Thuần thân vương Dịch Hoàn mạnh mẽ vạm vỡ như thế mà uống riết thuốc của viên ngự y, bỗng quay ra chết.




Quang Tự hoàng đế ở trong cung được tin cha chết, oà lên khóc lóc thảm thiết. Từ Hi thái hậu bèn sai Lý Liên Anh truyền dụ, khuyên hoàng đế bớt buồn, bảo trọng thân thể. Bà căn dặn thêm cả Long Du hoàng thân tuỳ lúc an ủi khuyên can ngài. Mặt khác, bà hạ dụ phủ tuất, phát của kho ra một vạn lạng để làm đám cho vương gia.




Từ khi Dịch Hoàn chết rồi, Từ Hi thái hậu trong lòng mới được yên, khỏi phải lo ngại điều gì. Và cũng từ đó, bà đâm ra tín nhiệm tên đạo sĩ Động Nguyên quá đỗi. Bà đích thân hạ dụ phong cho Động Nguyên đạo sĩ làm Tổng đạo giáo ty, song hành với Chính Át chân nhân núi Long Hố tỉnh Giang Tây. Bà lại còn bỏ ra một vạng lạng để giúp Nguyên trùng tu Bạch Vân quán.




Bạch Vân quán xây cất tại phía ngoài cửa Tây trực môn thành Bắc Kinh, vốn là một ngôi miếu cũ kỹ, vắng vẻ quạnh hiu. Biển quán treo ngoài cửa đã rơi rụng từ thuở nào. Các pho tượng tiên phật bên trong cũng đã đổ ngã xiêu vẹo gần hết.




Nhưng từ khi Tây thái hậu cho tiền sửa lại, Động Nguyên đạo sĩ đem hết tâm lực vào việc trùng tu. Nguyên nhận lệnh của thái hậu phát tiền kho ra sửa miếu, bèn mở một cuộc lạc quyên trong số các vương gia đại thần. Thế là từ các quan lớn Tổng đốc, Tuần phủ, xuống tới bọn tiểu lại trong các phủ huyện, anh nào anh nấy cũng phải lo một số tiền hiếu kính, để mong được y nói tết cho mình trước thái hậu. Chi cần có một lần đó thôi mà Động Nguyên đạo sĩ đã quyên được tới sáu, bảy mươi vạn lạng bạc. Nguyên tức tốc cho khởi công, nào đắp nền cắt gỗ, xây cất lại ngôi miếu ngay trên nền cũ.




Ngôi miếu cũ nhỏ hẹp, chỉ vỏn vẹn có hai sào vườn, nhưng nay đã có số tiền lớn trong tay, Nguyên bèn bỏ ra một số lớn mua thêm luôn một lúc đến bốn, năm trăm mẫu ở chung quanh, gồm cả nhà cửa ao chuôm của dân chúng nghèo địa phương. Nguyên tự đặt giá đất, chỉ chi tiền có vài ba chục quan một mẫu. Lân bang xóm giềng đều sợ Nguyên, ai cũng phải bấm bụng bán vội cho y. Nguyên mua được đất rồi, cho người phá hết những nếp nhà cũ, vẽ cả một hoạ đồ xây cất mới đồ sộ vĩ đại kinh khủng. Ngoài mặt tiền, điện gác cao ngất, rộng rãi thênh thang. Bên trong, đình đài quanh co, hết dọc đến ngang, nào ao, nào hồ, nào cây, nào hoa, xen kẽ xếp đặt rất là ngăn nắp xum xuê. Đứng bên ngoài nhìn vào ai cũng phải tấm tắc khen ngợi miếu đình quả có nguy nga đồ sộ, rộng lớn thiệt.




Đến ngày hoàn thành miếu, Động Nguyên đạo sĩ vào cung để cung thỉnh hoàng thái hậu giáng lâm, thay đức Bồ Tát khải quang khánh thành. Tây thái hậu vốn là người tín ngưỡng Phật giáo, nghe Động Nguyên đạo sĩ cung thỉnh lấy làm khoái thích, hãnh diện lắm. Bà liền hạ dụ chọn ngày rằm tháng giêng thánh giá thân lâm Bạch Vân quán để hành hương.




Tờ chỉ dụ vừa xuống, bọn văn võ đại thần nào còn thiếu tên phải một phen bực tức không biết đường nào mà lần nữa. Thì ra chỉ tại trong tờ chỉ dụ của Tây thái hậu có chỗ nói là tất cả gia quyến bọn vương công đại thần đều phải theo giá tới miếu để cùng đi hành hương.




Gia quyến của bọn vương công đại thần bình nhật thường cấm cung ở nhà, hoạ hiếm lắm mới ra ngoài, nay gặp ý chỉ này đều phải sắm sửa gấp rút lên đường: thử hỏi kẻ nào dám chống, dám trái lại lệnh thái hậu, lại phải sắm sửa nào quần nào áo, nào phấn nào sáp, đủ thứ ăn chơi cho các bà vợ yêu chiều, các tiểu thư lả lướt hay mè nheo nữa chứ? Thực thế, hai tiếng "ăn mặc" lúc này đối với họ, nghe nó khủng khiếp quá! Các bà phúc tấn tóc đã hoa râm rồi, kể ra cách đối phó còn dễ, chứ mấy bà dì (thái thái) xồn xồn, mấy cô nương cách cách mới toanh, mấy trang tiểu thơ nước da trắng như trứng gà bóc thì quả là một việc mệt mỏi quá khi phải thoả mãn mọi đòi hỏi!




Mấy khi được tòng giá cạnh Hoàng thái hậu? Mấy khi được đủ thứ mắt, nào mắt xanh, mắt trắng đổ dồn về mình? Đúng là cơ hội ngàn năm có một! Các cô, các dì trẻ măng và các tiểu thư, các cách cách tươi như hoa, ai chả có chút hiếu thắng muốn hơn người, ít ra là hơn cái quần cái áo, nhất là lúc này? Nhưng than ôi! Chính cái hiếu thắng ấy đã làm cho các vương công đại thần điên cả đầu lên, đau nhói cả tim đó!




Quan đại thần ta ngồi đó, các cô tiểu thư, cô thì cha may cho con bộ áo gấm năm màu, cô thì mẹ mua cho hộp sáp của Tây phương. Vương gia tuy nằm đó nhưng hồn còn để mãi tận đâu đâu. Mua đâu được cho dì hai nó cái quần hạng tuyết phẩm ấy nhỉ? Sắm đâu được cho cái con cách cách khó tính ấy cái chuỗi hột xoàn đáng vạn lạng nhỉ? Các vị vương gia, các bậc đại thần quả được thêm một dịp tốt đua nhau vắt óc kiếm tiền…




Rồi cái ngày phải đến tất đến: đó là ngày rằm tháng Giêng. Sáng sớm tinh sương, bà nào, cô nào cô nấy, tất cả đều bận quá mức, nào trát một tảng phấn trắng bệch như vôi lên má, nào bôi một cục son đỏ như máu cá lên môi, nào mặc lên một bộ quần áo màu cổ cứng ngập lấp cả đôi tai, nào đóng một cái quần ống thẳng tắp dài quét sạch mấy hè đường.




Các bà các cô ùn ùn leo lên xe nhà riêng của phủ mình. Xe lọc cộc ra đi. Xe trực chỉ phía ngoài cửa Tây trực môn, trước Bạch Vân quán, chờ đây đón giá.




Tất cả bọn phải đợi một lúc lâu. Bỗng người ta thấy cờ quạt rợp trời từ xa ùn ùn kéo tới. Khói lò hương bốc trầm thơm lên nghi ngút, quyện lại trên cao như một đám mây xanh theo gió dần tan. Rồi cả một đoàn người ngựa đưa rước Hoàng thái hậu tới, uy nghi như một đám rước thần.




Bọn đại thần đã xốc lại áo, xách lại quần, sửa soạn từ nãy, để bò mọp xuống mặt đường đón tiếp thánh giá. Chẳng mấy phút, đoàn người ngựa qua đi; bọn đại thần vương công lúc đó chẳng ai báo ai, lần lượt lên ngựa, lên xe, tìm đường đất phóng chạy như bay, mong tới Bạch Vân quán trước mấy phút để kịp quỳ đón thánh giá lần nữa tại nơi đây.




Ngự xa của Hoàng thái hậu, Hoàng thượng và Hoàng hậu tiến thắng vào mãi giữa sân mới đỗ. Hai bên đường đi vào sâu trong miếu lúc đó có đông đủ gia quyến bọn vương công quỳ mọp để đón giá. Thôi thì trâm ngọc, xuyến vàng lóng lánh, áo quần xanh đỏ khoe màu, người ta chỉ thấy đầy sân xuân sắc.




Hoàng thái hậu đưa cặp mắt đuôi lươn (tuy tuổi tác lúc này đã luống nhưng vẫn còn rớt lại đôi lần tình tứ) quanh một lượt khắp sân, bất giác để lộ trên cặp môi tô đỏ chót một nụ cười vẫn còn đượm vẻ xuân tình.




Tây thái hậu, mặt đầy vẻ kiêu hãnh, thong thả cất bước vào trong điện. Động Nguyên đạo sĩ đã phủ phục ngay tại mấy bực thềm ngoài cửa từ lúc nào. Thấy Tây thái hậu bước gần tới, Nguyên hô lớn:




- Hoàng thái hậu, hoàng thượng vạn tuế! Vạn vạn tuế!




Hoàng thái hậu bước tới trước Phật toà, thấy một pho tượng kim thân cao một trượng hai ngồi ngay chính giữa, nhận biết đó là tượng Ngọc hoàng thượng đế. Lý Liên Anh đem hương ngự tới và dâng lên. Hoàng thái hậu, hoàng đế và hoàng hậu nhất tề quỳ xuống bệ gạch lót nệm gấm, lạy mấy lạy. Phía sau, dưới mái hiên điện hai, ba trăm vị đại thần đều một loạt quỳ lên trên bồ đoàn lạy Phật.




Khung cảnh toàn miếu lúc này im phăng phắc gần như không có tiếng động. Bỗng tiếng chuông trống nổi lên vang dậy, bên đông khua thì bên tây đánh, bên tây đánh thì bên đông khua. Tiếp sau đó, người ta mới bắt đầu nghe những tiếng xủng xoảng của vòng ngọc, của xuyến vàng đeo bên mình các bà, các cô trong các gia đình quý tộc giàu sang và những tiếng leng keng, lích kích của những đồ trân châu, tô điểm óng ánh trên thân hình các ông lớn, mặt đang ửng lên vì vinh dự! Tất cả những âm thanh lạ tai đó hoà trộn lẫn nhau, tạo thành một tiếng ồn ào vĩ đại nhưng kỳ thú, khiến cảnh chùa miếu thanh vắng ngày nọ trở thành ầm nhộn nhịp phi thường…




Cuộc dâng hương đã xong. Bọn đại thần rút lui ra ngoài. Tây thái hậu truyền dụ Động Nguyên đạo sĩ tới, bà cho Nguyên được phép đi trước dân đường thăm viếng khắp nơi.




Động Nguyên đạo sĩ toàn thân ăn vận y phục đại lễ, tinh thần tỏ vẻ đắc ý, hãnh diện lắm, xun xoe đi trước, rũ đôi vai xuống một chút, khum cái lưng xuống một tí, cầm đầu cả đám đông đang lần lượt theo sau như nước chảy.




Tây thái hậu đi xem đã qua mấy lần điện, thấy tượng đắp đều là thiên thần, thiên tướng. Bà đi quanh ra một cửa tò vò Một khu vườn hoa xây cất, trồng trọt khúc chiết, quanh co vô cùng khéo léo tinh vi. Trong vườn, tuỳ từng chỗ đặc biệt, Nguyên cho nuôi nào hạc, nào hươu sao, nào công, nào gà gô, nào thỏ bạch… Có con từ trên bãi cỏ xanh rờn, lại có con ẩn núp trong các động rỗng núi giả sờn.




Hoàng thái hậu càng xem càng khoái.




Bà đi tiếp một chút nữa, qua mấy dãy hành lang bên trái viện, lúc đó mới thấy ngôi nhà chính, xây thành một dãy dài chín gian chính sảnh, nhưng lại năm nhô ra và bốn thụt vào.




Trong chính sảnh, người ta thấy Động Nguyên đạo sĩ đã cho bày biện bàn trà từ lúc nào. Đối diện với chính sảnh này, là một cái sân khấu diễn tuồng, căng màn kết hoa, đỏ rực cả một góc trời.




Đầy nhà, lúc này, đã được lên đèn, ánh sáng lấp lánh trông như sao trời đêm. Sân khấu đang sửa soạn mở màn.




Hai bên nhả chính sảnh, còn có mấy dãy nhà nhỏ, cửa màn kín đáo. Đó là những phòng để Hoàng thái hậu thay áo.

Hồi 155 Anh thầy cúng tốt số




Hoàng thái hậu, hoàng hậu vào phòng thay áo, nghỉ ngơi đôi chút thì bên ngoài trà, quả đã bày lên đầy cả mặt bàn. Một tiếng trống lớn, có tiếng thanh la, não bạt theo kèm bỗng xé không gian yên tĩnh, báo hiệu một cuộc vui nhộn lớn lao bắt đầu. Rồi tiếng hát giáo đầu cất lên, trong khi màn nhung từ từ mở ra rộng toác.




Động Nguyên đạo sĩ đã dặn trước gánh hát diễn mấy tuồng độc đáo mà nội đình ưa thích. Mọi người chỉ còn chờ đợi chỉ dụ của Hoàng thái hậu.




Quả nhiên, khi Hoàng thái hậu ngồi dùng trà, đã chọn ngay tuồng Hỗn Nguyên hạp, tuồng Cản Tam quan, Hoàng thượng chọn tuồng Hồi Long các, trong khi đó, hoàng hậu biết tính Hoàng thái hậu, thích loại tuồng tiểu đơn, liền chọn ngay tuồng Hồng Loan hy.




Hôm đó, Hoàng thái hậu thực là vui sướng hết chỗ nói.




Thân quyến của các quan viên đại thần ngồi hầu xung quanh xem hát. Trên sân khấu, tiếng sênh phách, tiếng ca nhạc tưng bừng nhộn nhịp. Phía dưới, màn quây trướng phủ, bọn văn võ quan viên đồng loạt cáo lui, chi còn lại mỗi một mình anh chàng đạo sĩ Động Nguyên, lượn như bươm bướm giữa cái đám quần thoa đó để vâng dạ, để đón đưa, cung phụng.




Ngày vui kéo dài mãi tới lúc mặt trời đã gác hẳn non Đoài, Hoàng thái hậu mới sửa soạn xa giá về cung. Đám nữ quyến của bọn vương công đại thần xem đang dở mắt, bỗng được lệnh sửa soạn ra về, bà nào bà nấy đành phải líu ríu lên xe, theo chân thái hậu vào thành. Chỉ vỏn vẹn còn lại có bọn vương gia đại thần ngồi trơ thổ địa ra đấy với nhau.




Động Nguyên đạo sĩ thấy vậy mời cả bọn vào ngồi trong chính sảnh. Bọn đại thần lúc này ai cũng muốn bầu bạn với Nguyên, thôi thì nào xưng hô bằng tiểu đệ, đại ca, nào tâng bốc nhau lên như diều giấy chiều thu. Tiệc rượu còn đầy đủ trên bàn. Cả bọn chia nhau an toạ, vừa nốc rượu vừa xem hát, vừa trò chuyện hết sức tương đắc.




Rất nhiều tên kép hát nổi danh nơi kinh thành hoa lệ này đều quen biết bọn vương gia đại thần. Bởi thế, khi xong vai trò của mình trên sân khấu, anh nào cũng chạy xuống phía dưới, ngồi lui về phía sau bọn đại thần vương gia cùng xem.




Bọn đại thần quay lại thấy bọn kép hát, thôi thì tay bắt mặt mừng, coi như bạn thân lâu năm mới gặp, nào hò rượu, nào quát đem đồ nhắm, tới tấp cả lên.




Vài hôm sau, Động Nguyên đạo sĩ vào cung tạ ơn. Tây thái hậu giữ Nguyên lại ngủ trong cung một lèo đến mấy ngày để trò chuyện. Nguyên giảng giải cho Thái hậu nghe thế nào là công phu Đại toạ luyện khí, lại dạy cho cả bà cách luyện tập công phu Bát đoạn cẩm như thế nào.




Theo Nguyên, hằng ngày cứ trước khi ngủ dậy, nếu tập luyện được công phu Bát đoạn cẩm, ắt sẽ được trường thọ lâu năm. Tây thái hậu tin lời Động Nguyên đạo sĩ, liền bắt đầu học tập từ ngày đó. Bà tập thành thạo, rồi từ đó bất luận ở nơi đâu bà cũng đều ôn luyện qua một lần Bát đoạn cẩm xong mới chịu khởi thân. Bà luyện tập công phu này mãi đến già không gián đoạn. Ấy chính nhờ sự luyện tập hằng ngày mà thân hình bà ngày càng đẫy đà đẹp tốt, đến già cũng không già ốm, đó là việc về sau.




Động Nguyên đạo sĩ lúc này quả được lòng Tây thái hậu.




Trước mặt thái hậu, Nguyên nói là được bà nghe, hiến kế ắt được bà theo. Nguyên thường được thái hậu tuyên triệu vào cung, cho ngồi tâu đáp mọi chuyện về đạo thuật. Nhiều hôm, nói chuyện với Nguyên từ sáng đến tối mà thái hậu không thấy mỏi, thấy chán.




Có nhiều quan đại thần thấy Nguyên đắc thế, đắc thời, vội tìm cách cầu thân, mời Nguyên vào phủ, đặt tiệc khoản đãi ăn uống đến lúc say khướt, liền cho gọi nào là phúc tấn phu nhân, nào là cách cách tiểu thơ ra trước cuộc rượu lạy Nguyên, tôn làm sư phụ.




Thế là từ hôm đó, cái phong khí mới lạ kẻ tôn làm sư phụ, người nhận lấy đệ tử ấy tự nhiên mở ra một kỷ nguyên mới. Thiếu gì những quyến thuộc quan gia trong kinh thành đều kéo nhau tới xin nhập môn hạ làm nữ đệ tử. Mà một khi được nhận, đều coi như một điều vô cùng vinh diệu!




Điểm đặc biệt là cứ mỗi một nữ đệ tử xin nhập môn phải có một số tiền gọi là tiền bái kiến sư phụ, nhiều thì phải kể vạn, mà ít thì cũng phải vài ngàn lạng. Ngoài chuyện tiền ra, còn phải đưa tới nộp thêm các loại đồ thêu, có người thêu cả một cái áo đạo bào, có người chắp lông hạc thành cả một cái áo thụng, lại cũng có người thêu cả một cây cờ phạn treo phất phới trước Phật đài. Cũng có những anh quan nhỏ, cấp bậc chức vụ chẳng cao bằng ai, hoặc tiền bái kiến sư phụ quá ít ỏi, đành phải cho vợ hay con gái tới để bái kiến Nguyên, hắn bèn chẳng thèm để ý tới.




Thú vị nhất là mấy anh vương gia cũng thiếp đi thư lại, mong sao cầu thân được với Nguyên, ấy thế hắn đã chịu cho đâu, cứ một mặt phớt lờ.




Người duy nhất được Động Nguyên đạo sĩ gọi đệ đệ huynh huynh, đó là Lý Liên Anh. Thực tế, chỉ có Anh mới là kẻ chí tình được với hắn. Cả hai tên tâng bốc lẫn nhau trước thái hậu, nói tốt cho nhau không thiếu một chuyện gì!




Lại một năm, đúng ngày rằm tháng giêng. Tây thái hậu đích thân lại tới Bạch Vân quán hành hương. Và rồi từ đó, hằng năm như một cái lệ, các quan viên văn võ trong kinh thành cứ đúng ngày rằm tháng giêng phải tới Bạch Vân quán hành hương.




Một hôm trước ngày rằm, Động Nguyên đạo sĩ sửa soạn tiệc vui, mời các vương gia đại thần tiệc tùng vui nhộn suốt ngày trong miếu.




Rồi từ ngày rằm ấy, cửa miếu mở toang, mặc sức cho khách thập phương chen nhau vào lễ Phật. Ngày hội bắt đầu từ đó, kéo dài mãi tới hai mươi lăm mới hết, vừa đúng mười ngày.




Thôi thì trai thanh gái lịch, ngựa xe kéo nhau tới như nước, phố xá chốn kinh thành đông nghẹt. Người ta đặt tên cái ngày hội đó là ngày "hội Thần tiên".




Hội Thần tiên, đâu có phải chỉ riêng bọn bách tính bình dân, mà cả những bà phúc tấn của các vị vương gia, các bà mệnh phụ của các đại thần, công khanh, các tiểu thư khuê các, các cách cách quý tộc, ăn mặc vô cùng lịch sự, trang điểm vô cùng mỹ miều.




Các bà phúc tấn, các bà mệnh phụ, các tiểu thư, cách cách này đi trẩy hội khác hẳn bọn dân giã quê mùa. Các bà, các cô đã tới miếu, thì tối hôm đó quyết chưa về phủ, còn phải ở lại một tối: Có như thế mới gọi là đi trẩy hội Thần tiên. Ngủ lại thêm một đêm như vậy gọi là Trúc Sơn.




Cái đám đàn bà này gần hết đều là nữ đệ tử của Động Nguyên đạo sĩ. Còn đám tiểu thư, cách cách trẻ măng như mấy con bê con, ngây thơ như mấy con thỏ mới sinh, lại còn ghi tên vào danh sách để xin làm can nữ nữa chứ! (Can nữ là một loại con nuôi không chính thức, hoặc để nhờ quyền thế, hoặc để nhờ dìu dắt, y như cái lối con tinh thần, cha tinh thần). Hễ thấy Động Nguyên đạo sĩ là đều gọi một can gia, hai can gia, tỏ tình thân thiết còn hơn cả gọi sư phụ.




Động Nguyên đạo sĩ mỗi khi thấy đám can nữ của mình tới mè nheo bên nách, y cũng quấn quýt lấy chẳng kém. Nguyên chuẩn bị vô cùng đầy đủ, nào là phòng ốc, nào là chăn gối, nào là mền trướng, tất cả đều hết sức lộng lẫy đẹp tốt, để cho cái đám con nuôi ấy ngủ qua đêm. Nhưng phòng lịch sự như vậy, có ít ra cũng đến mấy chục căn.




Trong đám phụ nữ, loại xồn xồn nhưng còn bảnh, hoặc đám cách cách, tiểu thư mới toanh, còn nguyên xi, có nhiều thị được Nguyên lưu lại đến ba, bốn đêm mới cho về. Nhiều ông quan tưởng rằng đây là dịp có thể thăng quan tiến chức được, liền nhờ vợ nhờ con gái thay mình nói khéo với Nguyên Can gia, xin nói tất cho vài lời trước mặt thái hậu. Nhiều anh quan, muốn cho chắc ăn hơn, còn lo liệu một số tiền lớn, vài chục vạn lạng bạc là ít, dâng cho Nguyên. Thực thế, miễn sao Động Nguyên sư phụ gật cho một cái, nhận số tiền, đấm vào mõm trên, đấm xuống mõm dưới, thì mươi hôm sau là đã thấy quan nhà ta nhảy trên hoạn lộ như cóc, từ cấp này lên bậc kia như bỡn.




Nhưng thú vị nhất phải nới cái đám quan được thăng đó đã chẳng biết câm cái mồm đi cho nó đẹp mặt, trái lại, còn ra ngoài vung vít khoe khoang cái tài cái khéo của vợ mình hoặc của con gái mình cho thiên hạ biết, tưởng thế là vinh dự, hãnh diện lắm! Số phận hẩm hiu nhất là của mấy anh quan già, có bà thái thái móm, hoặc có cô tiểu thư vổ răng, môi sứt, rốn lồi.




Người ta nhớ mải năm nọ có ông quan người Hàng Châu tên là Ngô thị lang còn để lại một câu chuyện thực là hi hữu.




Số là Ngô thị lang, tuy là một vị quan trong kinh đô đã lâu năm nhưng nghèo mạt, nghèo đến không có gạo ăn hằng ngày nữa! Ngô thị lang cũng muốn chạy vạy chỗ này chỗ kia, may ra cuộc đời có khá hơn đôi chút, nhưng khổ cái là lại chẳng có xu nhỏ nào trong túi. Ấy thế mà Úc thị, vợ cưng của ông, lại là một trang mỹ nhân tuyệt thế, biết tiêu tiền, khắp quan gia quyến thuộc trong thành ái mà chẳng rõ như vậy.




Năm đó, đúng vào ngày mồng bẩy tháng giêng, Úc thị vào phủ Bát vương gia để mừng tuổi năm mới, vừa gặp lúc bà phúc tấn của vương gia đang trang điểm son phấn để trẩy hội Thần tiên ở Bạch Vân quán. Thấy vậy, Úc thị cao hứng cũng theo bà phúc tấn ra đi.




Động Nguyên đạo sĩ vừa trông thấy Úc thị đã vội hỏi bà phúc tấn xem đó là vị thái thái của nhà nào? Bà phúc tấn liền giới thiệu cho Nguyên biết đó là phu nhân Ngô thị lang.




Đã từ lâu Nguyên nghe tiếng Úc thị sắc nước hương trời và đã có lòng ngưỡng mộ, nay bỗng được gặp, đời nào chịu để cá về sông! Thế là ngay sau đó, Nguyên ngỏ ý muốn thu Úc thị làm can nữ. Trái lại, Úc thị vội thối thác, chỉ vì không đem theo số tiền bái kiến sư phụ.




Xin nhớ cho rằng muốn làm một can nữ hoặc một nữ đệ tử của Động Nguyên đạo sĩ đâu phải chuyện dễ. Nhiều ít gì thì cũng phải có một cái lễ bái kiến.




Lễ bái kiến nhiều thì trên vạn ít thì cũng vài ngàn lạng, chứ đâu có cái chuyện cười suông mà được! Đó là chưa kể còn phải có thân bằng quyến thuộc năm, ba lần khẩn cầu đến mới mong có cơ được ghi vào danh sách đó của Nguyên. Ấy thế mà nay đối với Úc thị thì chính Động Nguyên đạo sĩ lại phải hạ mình xuống khẩn cầu để thu làm can nữ, thử hỏi còn gì vinh hạnh hơn cho Úc thị nữa chứ?




Bà phúc tấn ngồi bên cạnh càng lấy làm hãnh diện lây, vội bảo thị nhận lời Động Nguyên đạo sĩ. Bà còn nói thêm là thế nào sư phụ cũng sẽ có "hảo xứ" đôi lại về sau, khi nghe Úc thị nói không có tiền bái kiến, thì bà vội bảo:




- Có đây! Có đây!




Rối thò ngay tay vào túi lấy ra một tấm ngân phiếu năm ngàn lạng đưa cho Úc thị.




Úc thị nhận tấm ngân phiếu trao lại cho Động Nguyên đạo sĩ. Nhưng không ai ngờ được Động Nguyên đạo sĩ, con người đớp tiền lừng danh lâu nay, bỗng lắc đầu, xua tay lia lịa, bảo:




- Khỏi! Khỏi mà! Bần đạo nhận thấy gương mặt Ngô thái thái có tiên căn, chúng ta đều là người có tiền duyên cả mà! Tiền bái kiến còn cần gì!




Thế là ngay từ đêm đó, Ngô thái thái ở lại trong miếu, không phải một đêm mà luôn bốn năm đêm liền, và tất nhiên bà đã gặp tiên ông rất nhiều lần trong đại hội Thần tiên đó.




Lúc từ giã Bạch Vân quán, cùng về với phúc tấn Bát vương gia, Úc thị còn được Động Nguyên đạo sĩ bắt nhận thêm một ngân phiếu một vạn lạng bạc, gọi là chút lễ mọn "kiến diện" không phải của can nữ mà lại là của Can gia.




Đến hết ngày hai mươi lãm tháng giêng, miếu tan hội! Động Nguyện đạo sĩ nhận lời ký thác của Úc thị, bèn đem vào cung tâu với thái hậu, nói Ngô thị Lang lâm cảnh nghèo khổ, xin Lão Phật gia thưởng cho y một chức vụ.




Lời tâu xin này thật là đúng lúc! Bởi vì Tây thái hậu đang tính hạ dụ chọn một học sai (quan coi về học chánh).




Trong số các tỉnh tại Trung Quốc, chức vu học sai ở Quảng Đông có thể nói là béo bở nhất.




Chẳng mấy hôm, theo lời Động Nguyên đạo sĩ, quả nhiên Ngô thị lang đi làm học sai tỉnh Quảng Đông thật. Ngô nhận thượng dụ, vội vàng dẫn thân tới Bạch Vân quán tạ ơn.




Về tới nhà, Ngô thị lang lại còn bò rạp xuống đất dập đầu tạ ơn chính vợ ông là Úc thị nữa, mới thú vị chứ! Chuẩn bị khăn gói, hòm xiểng, Ngô quả thực như người chết đi sống lại, lòng thì cao hứng, mặt thì vênh vang với xóm giềng bè bạn không biết để đâu cho hết!




Một hôm, Từ Hy thái hậu ngồi nói chuyện gẫu với Động Nguyên đạo sĩ. Bà bảo Nguyên trong Bạch Vân quán, hoa viên xây cất đẹp thì đẹp thật, nhưng còn thiếu ít bức thư hoạ cần phải thêm vào.




Động Nguyên đạo sĩ vội quỳ xuống đất dập đầu tâu xin Lão Phật gia của y cho ít chữ về trang trí. Vì y biết Từ Hi thái hậu cũng rất khá về chữ nghĩa.




Đang lúc cao hứng, và cũng muốn đây là một dịp chưng tài với Nguyên, với thiên hạ. Từ Hi thái hậu liền gọi Lý Liên Anh mài mực và đem cái bút bự viết đại tự cho bà. Cầm ngay ngắn cây bút lông to tướng, Từ Hi thái hậu chỉ ngoáy có mấy nét trong nháy mắt mà mọi người đã thấy một chữ "PHÚC" lớn rất đẹp.




Viết xong chữ PHÚC, lại được Nguyên tâng bốc thêm mấy câu, Từ Hi thái hậu đã cao hứng lại cao hứng thêm, cho lệnh cung nữ đi lấy thêm bức hoạ "Đường hoa hỷ hoạ bình" mà bà đã vẽ từ trước với những nét vô cùng đắc ý, sau đó, đưa hết cả hai bức hoạ cho Động Nguyên đạo sĩ.




Nguyên lại vội vàng quỳ mọp xuống góc nhà dập đầu tạ ơn, rồi hí hửng mừng rỡ như được vàng, khệnh khạng vác hai bức hoạ bước ra khỏi cung.




Về tới Bạch Vân quán, Động Nguyên đạo sĩ gọi ngay anh thợ mộc tới, bắt làm ngay mấy cái khung chạm trổ tinh vi, lồng bức hoạ vào, trông hết sức lộng lẫy, quý phái. Xong đâu đấy Nguyên chọn ngày tết, sửa soạn một bữa tiệc thịnh soạn, cho gọi một gánh tuồng về để uống rượu xem hát.




Động Nguyên đạo sĩ cho treo bức tự hoạ và bức "Đường hoa hỷ hoạ bình" lên trên cao, rồi mời đủ mặt vương công, đại thần tới hoa viên thưởng ngoạn. Rượu được mấy tuần, một vị vương gia đứng dậy nói:




- Hằng năm, Lão Phật gia cho bọn đại thần rất nhiều bức hoạ. Lão Phật gia tuy thạo viết chữ, vẽ tranh, nhưng chỉ một mình thì làm sao viết xuể. Cho nên ngoài những chữ Phúc, Thọ, mấy chữ đại tự đó ra, còn bao nhiêu những khải tự, những bức hoạ Hoa Điểu, đều là do Giao thái thái vẽ thế viết thay cả đấy chứ Động Nguyên đạo sĩ nghe xong vội hỏi:




- Giao thái thái là bà nào vậy?




Vị Vương gia lại nói tiếp:




- Có lẽ sư phụ chưa rõ chuyện này.




Rồi ông ta kể:




- Theo luật lệ trong cung thì bọn thần từ trong và ngoài, trừ những nhân viên cung phụng trong nội đình, và nam thương bái thư phòng, cũng như nhân viên Nội phủ ra, phải làm quan từ nhị phẩm trở lên, mới được thái hậu thưởng cho chữ "PHÚC".




Bất luận quan to quan nhỏ nào, nếu tuổi chưa tới năm mươi thì không được thưởng chữ "Thọ". Nhưng từ lúc có Lão Phật gia ở trong cung, đặc biệt khai ân, bọn thần tử thường được thưởng thư hoạ. Nhất là khi Lão Phật gia cao hứng lên, thì bất luận là ai cũng đều được Lão Phật gia ban thưởng cho những bức hoạ, chữ PHÚC, chữ Thọ, do chính tay Lão Phật gia viết và vẽ, cũng có khi còn được thưởng cả bức hoạ "Hoa Điểu" bức tranh Tiểu Khải Tự nữa.




Lão Phật gia khi còn là Phi tử ở tại Đồng Âm thâm xứ, có học được kiểu tự hoạ rất tài tình, nên ngày nay mới thưởng cho nhiều người như thế. Song một người thì làm sao cho xuể bấy nhiêu việc được? Do đó, Lão Phật gia mới hạ mật chỉ xuống cho các vị tổng đốc, tuần phủ ở các tỉnh, tìm cho bằng được những mệnh phụ viết đẹp vẽ giỏi, đưa vào cung để thế Lão Phật gia viết chỉ và vẽ tranh.




Sau mật chỉ đó ít lâu, viền tổng đốc Tứ Xuyên chọn được Giao thái thái, liền lén đưa vào cung, bà Giao thái thái này tên là Tố Quân, nguyên người Vân Nam, theo chồng làm quan ở Tứ Xuyên. Chẳng may, chổng chết, gia cảnh hết sức nghèo túng, khó khăn. Người con trai tuy đã đỗ cử nhân nhưng cũng chưa được bổ đi làm quan. May được cái là Giao thái thái vẽ tranh Hoa Điểu tuyệt đẹp, lại giỏi cả văn, hay cả viết chữ Tiểu Khải Tự, cho nên nhờ đó bán tranh bán chữ trong giới quan trường vùng Tứ Xuyên được đủ tiền độ nhật.




Thế rồi khi nhận được mật chỉ của Lão Phật giao, tổng đốc Tứ Xuyên đưa Giao thái thái gấp về cung. Lão Phật gia vừa gặp mặt Giao thái thái, tỏ ra vẻ hết sức mừng rỡ, liền cấp cho hằng tháng hai trăm quan nguyệt bổng. Giao thái thái ở trong cung, suốt ngày chi có mỗi một việc là thế Lão Phật gia viết chữ và vẽ tranh mà thôi.




Giao thái thái người mập ú, mặt bự, mắt lớn. Bởi thế, Từ Hy thái hậu thường hay lấy thân hình bà mà đùa giỡn. Phải cái Giao thái thái thư hoạ tuyệt vời nên Từ Hy thái hậu lúc nào cũng tỏ vẻ quý trọng.




Theo lệ trong cung thì bất cứ cung nữ hoặc nữ quan, hễ thấy thái hậu đều phải quỳ lạy, duy chỉ mỗi một mình Giao thái thái là được miễn lễ ấy. Trong cung nội, từ người trên đến kẻ dưới, ai cũng đều gọi bà ta là Giao thái thái. Bà được cái tính hiền hoà, ai cũng thích.




Có một hôm nhân lễ vạn thọ của thái hậu, bọn phi tần muốn làm vui lòng bà, đã dự tính làm một cái mão Phượng quan rất lớn. Đến hôm vạn thọ, bọn phi tần đều ăn vận phẩm phục, cũng bảo cả Giao thái thái ăn vận như vậy nữa. Bọn cung nữ đem bộ phẩm phục lại cho Giao thái thái. Thế là trong mây phút sau, Giao thái thái đã thay hình đổi dạng. Bà ta cũng có quần hồng, có mão Phượng quan, có hài có cốt, đầy đủ bộ lệ: Người thì lùn lại mập ú, mà quần áo lại vừa rộng vừa dài, bà ta trông lúc này buồn cười quá, người xù ra như cái bồ nứt cạp, đứng lù lù trên mặt đất trông như một cây rơm.




Bọn cung nữ thấy vậy muốn cười mà không dám, hè nhau lại dắt bà ta đi mừng lễ vạn thọ của thái hậu. Lúc này, Thái hậu đang ngồi chính giữa điện để nhận lễ.




Một số đông phúc tấn, cách cách người Mãn, ăn vận đại lễ đã đứng hai bên cạnh thái hậu, bỗng thấy Giao thái thái ăn vận tròn xoe y như một quả bóng ngũ sắc nhúng nhinh từ ngoài vào, xuýt cười ầm lên mà không dám ra tiếng. Họ chỉ cười thầm trong bụng là bởi vì lúc đó Quang Tự hoàng đế cũng có mặt trên điện.




Về sau, khi hoàng đế ra khỏi phòng rồi, Giao thái thái nằm bò trên mặt đất hành lễ, trông chẳng khác chi một con ba ba rụt cổ nằm ỳ ra đó, thì cái người đầu tiên không nhịn được cười là chính Tây thái hậu. Bà cười chảy cả nước mắt nước mũi, xuýt nữa té xuống ngai vàng. Thấy vậy, bọn phi tần, và phụ nữ quý tộc người Mãn ùa theo, cười lên như nắc nẻ.




Khắp cả cái điện rộng lớn thênh thang lúc đó chỉ nghe có tiếng cười, tiếng thì hí hi, tiếng thì hô hố, tiếng thì hềnh hệch, tiếng thì khăng khắc, tiếng thì khanh khách… tạo thành một tiếng ồn chưa từng thấy ở trong cung cấm.




Tây thái hậu cười một lúc rồi lên tiếng hỏi ai đã ăn vận cho Giao thái thái như vậy. Nhưng hỏi được câu hỏi trên vừa xong thì bà lại phá lên cười nữa. Cuối cùng, Tây thái hậu ngừng lại, lên tiếng bảo:




Hôm nay là ngày vui của mọi người. Giao thái thái hãy vui cùng với bọn ta một hôm nhé!




Giao thái thái nghe thái hậu truyền bảo, vội dập đầu tạ ơn.




Thế là hôm đó, Giao thái thái được theo chân thái hậu du ngoạn Tam Hải. Tam Hải là một thắng cảnh rất rộng lớn.




Bọn phi tần và quý phụ người Mãn, có cặp chân to, có đôi giò bự, theo thái hậu chạy đi chạy lại xem nhởn nhơ chẳng mệt mỏi gì, nhưng đối với Giao thái thái thì quả là một hình phạt vô cùng thê thảm.




Giao thái thái vốn đàn bà Hán lại có cặp chân bự, đầu đội mão Phượng quan vừa to vừa nặng, đi một bước là lặp một bước, xiêu bên này vẹo bên kia, trông thương tâm hết sức!




Khổ cái nữa là hôm đó, thái hậu lại cao hứng đi du ngoạn quá lâu, mãi tới khi mặt trời gần gác non Tây mới xa giá về cung. Thái hậu thưởng cho Giao thái thái hôm đó rất nhiều đồ trân bảo quý giá. Giao thái thái tạ ơn, rồi ra khỏi cung, quay về nhà.




Nhưng khi đặt chân vào nhà, đôi chân là như đã sưng từ bao giờ! Bà nằm liệt giường, mặt nhăn nhó, như chỉ muốn cầm đôi cẳng mà liệng vội đi cho đỡ nhức!

Hồi 156 Công trình kiến trúc Di Hoà Viên




Sau khi đi du ngoạn Tam Hải về cung, Từ Hi thái hậu phàn nàn với Lý Liên Anh là nơi này đã từ lâu không sửa chữa gì cả, để đến nỗi nhiều chỗ lở lói suy sụp cả. Bà còn nói thêm là trước đó vài năm, bà đã cho gọi Nội Vụ phủ bảo sửa chữa lại nhưng Cung thân vương tâu không có tiền sửa chữa, Đông thái hậu lại bảo khỏi sửa, thế là chuyện dẹp. Hiện nay, tình trạng nơi đây đã quá tệ, nếu không lo sửa sang lại, thì còn gì là hoa viên nữa!




Lý Liên Anh nghe Từ Hi thái hậu phàn nàn như vậy, vội chạy tới quân cơ xứ báo cáo cho bọn đại thần nơi đây hay.




Bọn đại thần quân cơ, anh nào chả mong được lòng thái hậu. Bởi thế họ đi gọi nhau lại, họp hành luôn mấy ngày đêm để bàn tính việc tu bổ. Họ cho gọi cả viên đại thần Nội vụ đến, rồi biểu quyết ngay một số tiền lớn khởi công động thồ tức khắc Khu Tam Hải đã lớn, họ còn mở rộng thêm vây luôn cả một con đường lớn chạy dọc suốt từ khu thành tây cũ đến mãi tận cửa sau, để xây cất thêm hai toà Bạch Thạch Kiều rất là cao lớn gọi Kim Ngao, Ngọc Đống.




Tam Hải sửa chữa lại xong, bọn đại thần liền tới thỉnh thái hậu đi du ngoạn. Tây thái hậu bày giá tới Tam Hải, quả nơi đây lúc này khác hẳn khi xưa, cả một khu hoa viên đổ nát hoang tàn bỗng trở nên rộng lớn lộng lẫy, nào đền đài tráng lệ, nào hồ ao trong mát, không thiếu một cảnh đẹp nào! Tây thái hậu đi tới đâu khen tới đấy, thực là không ngớt lời khen. Rất nhiều thân vương phúc tấn, đi hầu cạnh thái hậu du ngoạn hết nơi này đến chỗ nọ, nhởn nhơ y như tiên nga trên thượng giới.




Giữa lúc đoàn du ngoạn đi hết chỗ này sang chỗ khác, vô cùng cao hứng sướng khoái, bỗng Tây thái hậu nhớ tới vườn Viên Minh thuở nọ. Bà cảm khái thốt ra lời nói:




- Tam Hải ngày nay đẹp nhưng sánh với vườn Viên Minh lúc trước thực chỉ bằng một phần muôn! Đáng tiếc là Tiên đế đã mất, mà vườn Viên Minh cũng đã huỷ! Cái ngày náo nhiệt phồn hoa xưa kia bên cạnh Tiên đế, ta còn làm sao mà thấy lại được nữa!




Nói đoạn, Từ Hi thái hậu bỗng lộ vẻ mặt thê thảm, đôi dòng lệ từ từ lăn trên đôi gò má. Bọn phi tần thấy vậy, vội kiếm lời an ủi bà và hộ vệ bà trở về cung an nghỉ.




Lý Liên Anh thấy Thái hậu nhớ tới vườn Viên Minh, trong lòng bỗng phát sinh một ý định. Bởi thế qua ngày hôm sau, Anh vội vã chạy tới chốn quân cơ, bàn tính với bọn đại thần phác hoạ một chương trình trùng tu vườn Viên Minh để làm vui lòng Thái hậu.




Trong số đại thần quân, có một vị lên tiếng:




- Muốn trùng tu vườn Viên Minh, nếu không có năm ngàn vạn lạng bạc thì đừng hòng. Nay Hoàng đế không còn tại thế, trong vườn chỗ nào chỗ nấy đều có lưu lại những cảnh thương tâm thuở nọ. Nếu Lão Phật gia qua đấy du ngoạn, tôi quyết Lão Phật gia không thể nào vui vẻ được. Chi bằng bọn ta lấy số tiền trùng tu vườn Viên Minh làm một cái vườn khác cũng rộng lớn như vườn Viên Mình. Khi Lão Phật gia xem thấy mới đẹp mà lại còn tránh được chuyện thương tâm do kỷ niệm cũ gây ra.




Nghe lời bàn tính này bọn đại thần đồng thanh khen hay.




Đôn Thân Vương Dịch Tôn nói:




- Lễ vạn thọ lục tuần của Lão Phật gia sắp tới rồi! Vậy toà hoa viên này phải xong trước cái ngày lễ trọng đại đó mới được! Đúng cái ngày lễ hôm đó, bọn ta sẽ thỉnh Lão Phật gia vào vườn du ngoạn một hôm để cho Lão Phật gia nức lòng hởi dạ…




Nói tới đây, Vương bấm đốt ngón tay, nói tiếp:




- Hiện nay là Quang Tự thứ mười lăm. Năm thượng thọ lục tuần của Lão Phật gia là năm Quang Tự thứ hai mươi. Trong quãng năm năm đó, công cuộc kiến thiết hoa viên đó chắc hoàn thành được.




Bọn đại thần nghe tới đây, đều đồng thanh công nhận.




Chưa hết, Vương gia còn nói thêm:




- Có điều toà hoa viên rộng lớn như vậy, xây cất ít nhất cũng phải hơn một ngàn vạn lạng bạc, thử hỏi đào đâu ra giữa lúc này? Chẳng lẽ bọn mình bắt Lão Phật gia mở hầu bao cho bọn mình xây cất. Khó! Khó lắm!




Trong khi Dịch Tôn nói tới đây, khựng lại, thở dài, thì bọn đại thần quân cơ anh nào anh nấy dập gãy cái đầu xuống để suy nghĩ xem tiền đó đào tại nơi nào!




Thái giám Lý Liên Anh lúc này cũng có mặt nơi đây. Giữa lúc bầu không khí nặng như đá đeo, Anh bỗng vỗ tay đôm đốp mắt sáng lên, hấp tấp nói lẹ:




- Có rồi! Có rồi!




Bọn đại thần bỗng như có điện giật, cồ đều ngóc lên, nhao nhao hỏi vội.




Tỏ vẻ đắc chí, Anh thong thả nói y như một ông thầy đồ giảng bài:




- Chẳng phải bọn ta mỗi năm phải trích ra hai trăm vạn lạng trong kinh phí của Hải quân đó sao? Nếu ta dành số tiền đó lại trong năm năm, thì đã thấy có ngàn vạn lạng rồi còn gì?




Thử nghĩ xem nước Trung Quốc ta toàn là đất liền; dùng Hải quân mà làm quỷ gì! Còn bọn ngoại quốc chúng đều là thần tử của Đại Thanh triều ta cả, hơn nữa chúng lại là những tiểu quốc, thì bố bảo chúng cũng chẳng dám sờ đến lông chân của thiên triều ta! Do đó, Hải quân thực chẳng biết dùng vào việc gì. Bởi thế lấy kinh phí của đám quân này ai dám nói ra nói vào một nửa lời chứ? Ví thử số tiền xoay sở được đó quá ít, không đủ chi tôi đã có cách. Xin thưa ngay cách đây: ta mượn danh nghĩa Chấn hưng hải quân mở rộng một cuộc quyên cũng để gọi là "Báo đáp Hải quân". Giả dụ số kinh phí Báo đáp Hải quân thực ngân là bảy ngàn lạng ta sẽ tính cao lên một vạn lạng, rồi xin Lão Phật gia cho họ một cái chức tri huyện thế là xong.! Đến cách này mà chưa đủ, thì bọn ta anh em xúm lại chịu khó móc hầu bao lần chót, lẽ nào lại chẳng được như ý nguyện để đạt tới thành công?




Nghe Lý Liên Anh diễn thuyết một thôi, bọn đại thần đều đồng thanh coi như một diệu kế, nhất là khi nghe nói Lão Phật gia biệt đãi đối với mình, anh nào anh nấy đều hí hửng, và còn xác nhận thêm lời Anh nói quả chẳng sai tí nào!




Thế là nội vụ đã được quyết định. Tất nhiên việc thực hiện phải đi theo ngay với lời nói. Chẳng bao ngày, việc đầu tiên phải làm của bọn đại thần quân cơ này là kiểm kê hết mọi sổ sách để đem ra dùng số kinh phí của Hải quân một triệu lạng bạc bớt số, tích trữ, giấu diếm được bao lâu nay.




Việc thứ hai là xin Tây thái hậu chỉ dụ cho mở một cuộc quyên cúng "Báo đáp Hải quân". Đến việc thứ ba là chỉ định một vùng đất trống rộng lớn bao la bát ngát tại Vạn Thọ sơn để kiến tạo hoa viên.




Hoa viên này vốn để chuẩn bị khánh chúc ngày lễ Vạn thọ của Thái hậu, bởi thế mọi người đồng thanh đặt tên là Di Hoà viên. Di Hoà có nghĩa là di dưỡng mối Thiên hoà.




Khi đưa ra chương trình kiến tạo hoa viên Di Hoà, thì Vinh Lộc đã lại được bổ dụng chức tướng quân Tây An. Lộc nghe được tin này, vội vàng quyên cúng ngay một số tiền lớn hai mươi lăm vạn lạng bạc để lấy tiếng người đầu sổ, và tất nhiên để làm cái lễ mọn dâng ngày vạn thọ của Thái hậu.




Từ Hi thái hậu vốn vẫn quý mến Vinh Lộc bởi thế bà cho lệnh điều động Lộc về ngay kinh đô, đồng thời nhập vào quân cơ xứ. Thấy đã có người xung phong quyên cúng, bọn vương công lo đến thân mình, ngại đến cái quyền chức của mình, vội ùn ùn ghi danh đóng góp, kẻ thì mười vạn, người thì hai chục vạn, tiền lúc đó được khiêng tới ùn ùn nơi quân cơ.




Mặt khác, số tiền kinh phí Hải quân thu được đến bốn, năm trăm vạn lạng bạc. Chưa hết, còn một khoản tiền đặc biệt này nữa: đó là khoản tiền gọi "Nhân khoản" do Hộ bộ thượng thư Diệm Kính Minh tâu lên sau tài khoá năm đó.




Nhân khoản là tiền gì? Chiếu lệ cuối mỗi năm Hộ bộ thượng thư phải kiểm kê lập thành bản tồn khoản (những khoản tiền còn lại) báo cáo vào cung để Lưỡng cung Thái hậu xem xét.




Bản tồn khoản này thường chỉ ghi những khoản chính. Còn một khoản phụ kiểm kê từ các năm trước trở lại, những khoản tiền đổi giá, tất cả những khoản đó đều là nhân khoản?




Nhân khoản không ghi vào biên bản, và thường đem chia nhau từ anh quan to xuống tới anh quan nhỏ, mỗi anh cứ cuối năm, có chút tiền bổng, khả dĩ an ủi lắm!




Nhưng từ khi Diệm Kinh Minh lên làm Hộ bộ thượng thư thì nhân khoản không còn là nguồn an ủi của bọn quan lại bộ Hộ nữa. Diệm sở dĩ cắt hết nhân khoản này, một là vì sợ chính khoản thiếu hụt, cần phải có nhân khoản để đập vào, hai là để lấy lòng Thái hậu, chủ đích mong bà khen giỏi trù tính chi tiêu.




Thế là năm đó, bản báo cáo dâng lên, Thái hậu xem qua, mừng rú lên, vì tự nhiên mà có được một nhân khoản lớn đến hơn bảy trăm vạn lạng bạc. Bà vội bảo Lý Liên Anh tới hội bê ngay số tiền lớn đó về cho bà, để dồn vào số tiền chi phí trong công cuộc xây cất Di Hoà viên.




Tiền nong dư dả, tha hồ mà vẽ vời tô điểm cho Di Hoà viên. Thực thế, có thể nói Di Hoà viên được kiến thiết chẳng kém phần hoa lệ, nguy nga so với bất cứ một hoa viên nào!




Hoa viên xây cất đằng đăng suốt mấy năm trời, mãi tới năm Quang Tự thứ mười chín thì hoàn thành. Vị đại thần giám đốc kiến tạo hoa viên bèn mời các vị vương gia đại thần vào thăm vườn và xem xét lại một lần chót.




Hôm đó, Đôn thân vương chuẩn bị từ sáng sớm, đem theo một đám đông đại thần tiến vào hoa viên để xem xét. Di Hoà viên hoa lệ ra sao, kiến trúc như thế nào, xin mô tả qua để quý vị độc giả biết thêm một công trình kiến trúc của thời quân chủ cách đây chưa bao xa, với bao nhiêu mồ hôi nước mắt của quần chúng, hầu mong cung phụng cho hạnh phúc riêng của một người, một dòng họ.




Di Hoà viên vốn xây cất trên cái nền cũ của Thanh Y viên ngày trước, tại mặt tây Bắc Kinh, cách xa đô thành chừng hai mươi dặm. Lưng tựa vào Vạn Thọ sơn, Động Nguyên viên, vây khắp hồ Côn Minh vào giữa. Nếu do góc cửa đông mà đi vào, người ta phải qua cửa Nhân Thọ môn.




Điện đài nơi đây đồ sộ cao lớn, nhất là điện Nhân Thọ. Tiến vào cửa điện, người ta gặp ngay một toà lâu đài gọi là Nguyệt Đài. Trong đài, tại tầng thứ nhất có bày bốn các tĩnh lớn.




Lên tầng thứ nhì, người ta thấy có hai cái chum đồng chạm trổ hai con rồng và hai con phượng múa lượn chung quanh. Trong giữa điện, đặt một cái ngai quý bằng gỗ mun, cửa ngoài khoá chặt. Quay sang hướng tây, đi chẳng mấy bước, ta sẽ thấy một tấm biển, trên khắc bốn chữ: "Thuỷ mộc từ thân".




Mặt tây ấy chính là hồ Côn Minh. Phía bắc hồ, là toà Lạc Thọ đường. Toà đường này về sau trở thành tẩm cung của Hoàng thái hậu. Trước mặt đường, cũng có một nguyệt đài.




Bên cạnh đài, lại còn có một ngôi đình, xây cất theo kiểu noãn phòng (phòng ấm) toàn bằng pha lê. Phía trong đình có trồng một cây thông, chẳng khác gì một cây san hô.




Lại về hướng tây, đi quanh quẩn một hồi, ta sẽ phải đi qua một dãy hành lang dài đến mấy chục trượng. Nhìn về phía Bắc, ta thấy một toà núi, trên đỉnh xây một toạ đài, tên gọi Quốc hoạ đài cao đến vài chục trượng. Phía dưới đài là một cái điện, gọi tên là Bài Văn.




Điện dài chín gian, hết sức rộng lớn, về sau thái hậu dùng nơi đây làm chỗ toạ triều. Trong điện, có một đôi câu đối, vế trên viết:




"Vạn hốt tinh sơn triều Bắc cực".




Còn vế dưới viết:




"Cửu hoa tiên nhạc tấu Nam huân"




Hai bên vách điện, xây đắp đến mấy chục cây thập cẩm cao mãi đến tận xà nhà. Thềm điện tính cả thảy mười bốn tầng.




Trên nguyệt đài bày bốn cái đỉnh và chum bằng đồng, có chạm trổ từng cặp long, phượng trên từng đôi một.




Ở phía sau điện, có một cái gác gọi là Phật Hương các, thềm cao đến vài chục bực toàn đá. Nếu theo cửa ngách mà vào, ta sẽ thấy một cái bia đá lớn, trên khắc bảy chữ: "Mộ ái triều phong thường tự tả"




Nếu lại mặt bắc mà đi, ta cung sẽ gặp một cái gác, gọi là Bảo Vân các. Gác có mái đình bát quái, cửa cột bao lơn, chấn song đều bằng đồng đúc.




Từ Bảo Vân các, có ba pho tượng Kim thân. Phía sau gác, lại còn có một ngôi đình, gọi là Chung Hương giới. Đây chính là nơi cao nhất của Vạn Thọ sơn.




Lại theo hướng nam mà đi ra, để gặp một cái cổng, trên cổng đề bốn chữ "Đạo dưỡng chính tính". Trước cổng, một dãy tường thấp ôm quanh lấy đỉnh núi. Tựa vào bức sơn tường này mà nhìn về nam, ta thấy trên mặt hồ, nào đình đài, nào lầu gác chẳng khác chi như nhìn phong cảnh trên một áng mây bạc, rõ mồn một.




Bên cạnh điện, cất mấy ngôi đình bát giác. Chuyển luân tạng vốn là hai toà bảo tháp làm bằng gỗ, mỗi toà cao tới mười mấy tầng. Cứ mỗi tầng, mặt ngoài đều có khắc tượng Phật. Mỗi một toà tạng cao đúng ba trượng, ngày đêm xoay chuyển liên tiếp, không bao giờ ngừng. Mãi về sau, năm Canh Tý, năm Bát quốc liên minh đánh vào kinh thành, chiếm đóng Di Hoà viên, lúc đó, hai toà chuyển luân tạng mới ngừng hẳn, không xoay chuyển được nữa.




Trong điện, còn có hai toà nhật quỹ (đồng hồ mặt trời), trên mặt khắc ghi số giờ số khắc, giữa đặt một cái kim đồng.




Mỗi khi mặt trời chiếu sáng, cây kim chỉ vào số giờ nào, khắc nào, là ta biết ngay mấy giờ, mấy khắc. Bỏ Chuyển luân tạng mà đi quanh ra, ta gặp điện Huy Đức phía trên có biển đề bốn chữ Phu quang vinh khánh. Chốn này đã là mặt đông của điện Bài Văn. Về mặt tây, lại còn có một ngôi điện nữa: điện Thánh Ly. Điện này đối diện với một cái rạp hát, xây cất hết sức huy hoàng rực rỡ. Đấy chính là nơi Thái hậu đi xem hát.




Đi dọc theo đường núi quanh co một lát, ta thấy một ngôi đình biển đề ba chữ "Hoạ trung du " chung quanh có rất nhiều câu đối viết chữ hết sức tươi đẹp, để ca tụng phong cảnh như sau:




1.




Cảnh tự viễn trần giai nhập vịnh




Vật hàm diệu lý tổng kham tầm.




2.




Kỷ hử sùng tình ký viễn tích




Vô biên giai huống thiếp hương khâm.




3.




Nhàn vân quy tụ liên phong ám




Phi bộc thuỳ không thân thạch lương.




4.




U lại tĩnh trung quan thuỷ động




Trần tâm tức hậu mịch lương lai.




5.




Xuyên nham độc chung tú




Thiên địa bất ngôn công.




6.




Sơ sắc nhân tâm viễn




Tuyền thanh nhập mục lương.




Bên cạnh ngôi đình này có một cái động đá. Đi xuyên qua động này, ta thấy một cái bia đá lớn đập ngay vào mắt. Trên mặt bia khắc một hàng mười chữ: "Sơn xuyên ánh phát sử nhân ứng tiếp bất hạ". Lại đi lên chút nữa, ta gặp một ngôi đình nữa, biển đề bốn chữ "Hổ sơn chân ý". Đây chính là nơi thừa lương (nghỉ mát) của Thái hậu sau này. Và đây cũng là nơi cao nhất của Vạn Thọ sơn rồi.




Đứng từ nơi đây, hướng về bắc, nhìn xuôi xuống phía dưới núi, ta thấy bên ngoài bức tường lớn vây quanh, độ hơn mười dặm, phố xá chốn kinh thành dọc ngang như bàn cờ, ngựa xe chạy như mắc cửi. Ngay trước mặt ngôi đình, phía trên đề ba chữ "Chỉ thụ lâm".




Từ phía sau lầu cao có hơi thấp hơn một chút, ta phóng tầm mắt về hướng đông bắc, ắt thấy ngoài xa chừng vài dặm, một dãy tường thấp chạy loanh quanh như con rắn bò trên một khu đất bằng.




Khu đất này chính là cái nền cũ của vườn Viên Minh thuở trước. Trên đỉnh núi ta đi về phía đông, tất phải theo một con đường lớn lát toàn bằng đá hoa cương mài nhẵn thín, miếng nào miếng nấy vuông vức.




Con đường này dài có đến vài dặm, tuy khi còn ở trên núi có chỗ chìm xuống lại có chỗ vươn lên cao nhưng tổng quát đều bằng phẳng rất dễ đi. Tận đầu mút con đường là một ngôi đình gọi tên là Hội đình.




Từ Hội đình này, ta đi xuống núi tới gác Cảnh Phúc, nơi đây Từ Hi thái hậu ăn cháo hằng ngày. Rồi lại từ gác Cảnh Phúc đi ra, ta qua Như Y trang, rồi Bình An thất thăng tới Lạc Nông hiên. Ở chính giữa hiên này đặt một cái ngai vàng. Phía sau ngai vàng bày một cái ghế. Mé tả để một cái giao ỷ làm theo kiểu Tây phương, bên trên trùm một cái màn vải vàng.




Lại từ Lạc Nông hiên đi xuôi theo về hướng đông nam, ta gặp Chúc Tân lâu, Hàm Viễn đường. Trước ngôi đường Hàm Viễn này, có một cái ao vuông, ăn thông với con suối, nước chảy róc rách suốt ngày đêm từ trong núi ra. Khu đất này xây cất giống in như khu "Đồng Âm thâm xứ" lúc Từ Hi thái hậu còn là một phi tử trong cung. Những dãy lan can, những chiếc chấn song quanh co vẽ chạm hết sức tinh vi khiến phong cảnh càng thanh u hơn.




Bên cạnh ao, cất một ngôi đường gọi là Hoà Xuân đường, bên bìa chìa ra ao xây một cái cầu gọi là Tri Ngư kiều. Bốn mặt chung quanh cây cầu này, đều có đình đài xây cất tinh xảo tráng lệ.




Đi qua cầu Tri Ngư, ta gặp một toà viên lạc, mặt nam cũng như mặt bắc, đều có bốn, năm căn nhà đối diện nhau. Khu nhà mặt nam chứa một chiếc thuyền rồng.




Khu nhà mặt bắc lại chứa một bộ đồ thư tập thành. Bỏ qua viên lạc này, tới toà Đức Hoà viên. Chính giữa vườn, xây một ngôi điện vũ, tên gọi Di Lạc điện.




Trước mặt điện, xây một cái rạp hát lớn. Rạp cao ba tầng. Từ tầng cao nhất, ta nhìn ra xa, thấy Ngọc Lan đường ở trước mặt. Đây chính là tẩm cung của Quang Tự hoàng đế sau này.




Hai bên giải vũ trước mặt điện đều có những dãy phòng dài mười một gian, mỗi gian dùng ván chắn ngang. Hai dãy phòng này dành cho các bậc vương công đại thần ngồi xem hát. Lại từ đây tiến về hướng nam, ta tới hồ Côn Minh. Bước dọc theo bức tường đông mà đi bộ chừng hai dặm đường ta gặp cửa cung môn, và một cái bia đá dựng ngay bên mé tả.




Cái bia này gọi là Chức Nữ thạch, cao có tới bốn, năm thước, dựng lên từ năm Giáp Thân. Còn mé hữu cửa cung, một con trâu đồng nằm trên mặt đất, dài bốn, năm thước, được đặt tên là Khiên Ngưu.




Đối diện cửa cung môn, một cái cầu tàu xây trên bờ Bạch Thạch hà dùng làm chỗ cặp thuyền du ngoạn trên hồ Côn Minh.




Dọc theo hồ Côn Minh, đi về hướng tây, ta gặp một cây cầu mười bảy nhịp. Đi qua cầu, tiến về hướng bắc, ta thấy một cái miếu, đó là miếu Long Vương. Cột miếu hai bên có treo đôi câu đối như sau:




Thiên ngoại thị ngân hà yên ba uyển chuyên.




Vân tiền khai thuỷ ốc, hướng vũ phi vi




Ba mặt đông tây nam ngoài cổng miếu, đều có dựng bia đá. Đằng sau miếu là Hàm Hư đường. Phía sau ngôi đường này, lại là Côn Minh hồ. Về phía tây, đối diện với hồ là Ngọc Tuyền sơn…




Phong cảnh của vườn Di Hoà đại khái là như thế. Trong vườn có nhà máy điện, đốt đèn điện, có đường sắt, có tàu thuỷ chạy hơi nước.




Cứ mỗi một nơi, đều có đến vài chục viên tổng biện, bang biện uỷ viên, quá nửa đều là người Mãn.




Về sau, khi Hoàng thái hậu đem Quang Tự hoàng đế vả hoàng hậu vào ở trong vườn, thì chỉ duy có tiền hoả thực (tiền bếp) mà đã lên tới một vạn hai ngàn quan tiền mỗi ngày…




Kiến tạo khu vườn Di Hoà mục đích để đợi ngày lễ vạn thọ của Hoàng thái hậu, mời bà vào du ngoạn mong làm vui lòng bà. Bởi thế ban đốc công phải cố làm xong vào năm Quang Tự thứ mười chín, tức là năm trước khi Từ Hi thái hậu vừa đúng sáu mươi tuổi.

Hồi 157 Trung Nhật chiến tranh




Di Hoà viên làm xong năm thứ mười chín Quang Tự. Qua năm sau tức năm thứ hai mươi, lễ vạn thọ của Từ Hi thái hậu sáu mươi tuổi được tổ chức trọng thể.




Bọn Vinh Lộc và Dịch Tôn cầm đầu đám vương công đại thần vào triều tâu bày với Hoàng thái hậu trù bị đại điển (lễ lớn) để khánh hạ (ăn mừng).




Nhưng không ngờ, tháng sáu năm Giáp ngọ, Quang Tự hoàng đế bỗng khai chiến với Nhật Bản. Nguyên nhân cuộc đại chiến này như sau: Triều Tiên vốn là một thuộc quốc của Trung Quốc từ trước. Sau khi Lý Hi lên làm vua nước này, ông vua cha là Lý Thị Ung vẫn thường can dự vào triều chính. Vì thế có chuyện lủng củng, xích mích giữa tình cha con của họ Lý.




Thấy vậy, Hi bèn phong cho vua cha làm Đại Viện Quân, chủ đích là để cho ông đừng can dự vào triều chính nữa. Nhưng Hi không ngờ là cha mình, từ khi được phong tước như vậy, lại càng lộng hành hơn.




Do đó, triều đình Triều Tiên văn võ bá quan tự nhiên chia thành hai đảng, kình chống nhau, khuynh loát nhau. Vua Triều Tiên tức Lý Hi chẳng còn biết cách nào hơn dâng biểu vào Trung Quốc cáo cấp.




Từ Hi thái hậu thấy tờ sớ của Triều Tiên, lập tức sai Đề đốc Ngô Triệu Hữu, hiệp cùng Đồng tri Viên Thế Khải đem thẳng quân binh vào cung đinh Triều Tiên, lấy danh nghĩa là thế nhà vua dẹp nội loạn.




Chưa hết, Thái hậu còn sai thêm Ngô Đại Trưng, Khánh Dụ, Tục Xương, biện lý mọi việc sau khi đã bình định xong Triều Tiên, mặt khác, hạ dụ cho Lý Hồng Chương điều động thuyền binh, mang theo thuỷ sư đề đốc Đinh Nhữ Xương rầm rộ kéo tới Triều Tiên để tính chuyện bảo hộ.




Quân đội Trung Hoa kéo vào Triều Tiên, bắt trói Đại Viện Quân điệu về Bắc Kinh. Từ Hi thái hậu truyền dụ đem giam vào Bảo đình.




Vua Triều Tiên không ngờ câu chuyện lại nghiêm trọng đến thế, lúc này quả đã hối hận vô cùng. Tình phụ tử dù sao vẫn còn mang nặng trong lòng. Bởi vậy. Hi lại dâng biểu lên triều đình nhà Thanh xin phóng thích cha mình.




Lại một việc không ngờ nữa là khi Đại Viện Quân được thả về nước, ông ta liền sai người ngấm ngầm liên lạc với Nhật Bản, lén ước với Nhật cả một chương trình hành động lớn.




Được cơ hội ngàn năm một thuở, Nhật Bản lập tức sai Y Đằng Bác Văn sang Thiên Tân thương lượng với Lý Hồng Chương về vụ Triều Tiên. Bác Văn bảo Chương là bọn Ngô Triệu Trưng, Viên Thế Khải đến bảo hộ Triều Tiên đã cự tuyệt Nhật Bản, bởi vậy, yêu cầu Trung Quốc cho gọi ngay Trưng và Khải về trừng trị.




Trung Quốc và Nhật, hai bên thương lượng mấy hôm, kết qua là Trung Quốc phải theo ý kiên Nhật, mặt khác còn phải ký thêm một hiệp ước Trung - Nhật, đồng gởi quân sang bảo hộ Triều Tiên.




Chính vì hiệp ước này, nên về sau người ta thường thấy quân đội hai bên xung đột với nhau. Mầm hoạ của cuộc Trung - Nhật đại chiến đã nảy ngay từ đó.




Mọi chuyển biến bên ngoài thì như vậy, bên trong cung đình nhà Thanh còn nhiều điều rối rắm khác. Mà quan trọng nhất là việc bất hoà giữa Từ Hi thái hậu và Quang Tự hoàng đế.




Lúc sửa soạn làm lễ đại hôn của Quang Tự, thì theo ý hoàng đế, ngài định chọn hai cô gái của Giang Tây tuần phủ Đức Hinh kia, trong khi Từ Hi thái hậu lại quyết tuyển đứa cháu gái của mình tức là con gái của người anh Quế Tường làm Hoàng hậu cho nhà vua.




Ý định của thái hậu như thế, bà bèn lén đưa ngọc như ý cho con gái Quế Tường. Quang Tự hoàng đế tức mình lắm, nhất định không chịu, bèn cố ý đánh rớt, khiến ngọc như ý vỡ tan tành như cám vụn.




Nhưng rốt cuộc, con gái Quế Tường vẫn làm hoàng hậu, còn hai người con gái của Đức Hinh chỉ được phong làm Quý phi: một là Cẩn quý phi, một là Trân quý phi.




Việc trớ trêu thêm nữa là tuy có đủ ba người đẹp bên cạnh nhưng Quang Tự lại chỉ yêu tha thiết mỗi một Trân quý phi. Hoàng hậu cùng một phe với hoàng thái hậu, có lẽ cũng vì thế mà Quang Tự không muốn lui tới tình tự, cuối cùng gần như lãnh đạm thờ ơ, không có một chút nào tình nghĩa vợ chồng!




Và cũng vì vậy, Hoàng thái hậu và hoàng hậu đâm ra thù ghét Trân quý phi đến xương tuỷ. Tuy nhiên, Quang Tự hoàng đế đã tới tuổi trưởng thành, hoàng thái hậu không có cách gì giữ mãi quyền chính về mình mà không trao cho nhà vua, chỉ phải cái Quang Tự hoàng đế hình như người không có thời, kiếp vận thiếu hẳn may mắn, việc nước ngày càng hỏng nát, vấn đề đối ngoại ngày càng cấp bách.




Bọn đại thần trong triều đình đều liên lạc với Lý Liên Anh hợp cùng đảng với thái hậu. Duy chỉ còn có sư phó ông Đồng Hoà là còn có lòng trung, đem hết sức phò tá nhà vua mà thôi.




Hồi đó, ảnh hưởng của Nhật Bản càng ngày càng bành trướng ở Triều Tiên. Bọn thần tử Triều Tiên vốn đã chia làm hai đảng: Độc Lập và Sự Đại, sau lại còn thêm một đảng gọi là đảng Đông Học.




Thế lực của Đông Học đảng rất mạnh. Đảng này khơi sự, do hai đường Toàn La và Trung Thanh, đánh thốc tới Hán Thành.




Tả nghị chính là Phác Vinh Hiếu, nguyên là thủ lãnh của đảng Độc Lập, ỷ vào thế giúp đỡ của Nhật Bản, vẫn thường nuôi cái ý ly khai Trung Quốc.




Hiếu chỉ ngại có Trung Quốc thông thương uỷ viên là Viên Thế Khải thời thường ở bên cạnh giám sát mình, cho nên chưa dám động thủ. Nhưng về sau, được tin đảng Đông Học khởi sự, Hiếu bèn hạ lệnh đánh thốc vào vương cung, đốt chết tiêu Mân phi.




Mẫn phi vốn là người đẹp số một của trần gian này. Người anh ruột Mẫn phi tên là Mẫn Vịnh Tuấn vội chạy tới nha môn của Viên Thế Khải khóc lóc tố cáo, và khẩn cầu Trung Quốc phát binh báo thù cho em mình.




Viên Thế Khải đánh một công điện gấp cho Lý Hồng Chương, một mặt thông tri cho Nhật Bản biết chuyện này, đồng thời, huy động cấp kỳ toàn thể thuỷ quân, hướng ngả Nhân Xuyên Triều Tiên tiến phát, còn một mặt khác điều động lục quân kéo tới đồn trú tại chân núi Nha Sơn trong địa phận Triều Tiên.




Tướng Nhật tên là Đại Ô Khuê Giới đem chuyện quân Thanh xông vào Triều Tiên báo cáo với Chính phủ Nhật Bản. Tức thì Chính phủ Nhật lên tiếng cật vấn quốc vương Triều Tiên, nhất là về điểm: như thế Triều Tiên có phải là quốc gia độc lập không?




Quốc vương Triều Tiên sợ oai thế của Nhật Bản, không dám không nhận. Thế là Đại Ô Khuê Giới thông triều cho Trung Quốc trân trọng yêu cầu rút quân ra khỏi Triều Tiên cấp kỳ.




Viên Thế Khải đời nào chịu nước lép, bèn điện cáo gấp về cho Lý Hồng Chương, Chương bèn căn cứ vào hiệp ước Thiên Tân hồi nọ, yêu cầu cả hai nước Nhật cũng như Trung đồng thời lui quân. Nhật Bản không thèm trả lời. Lý Hồng Chương đâm lo ngại bèn lục tục tăng quân, nườm nượp kéo tới Triều Tiên để phòng bị bất trắc. Mặt khác, Chương thấy người Nhật có ý ghét Viên Thế Khải, bèn gọi Khải về Phụng Thiên, để thay thế bằng Vệ Nhữ Quý với một cánh quân hùng hậu hơn, công nghẹt cả Bình Nhưỡng. Để cho sự bố phòng được chu đáo, Chương tăng thêm chi quân của Mã Ngọc Côn đồn trú tại Nghĩa Chân có Diệp Chí Siêu giữ chức tướng tiên phong, trấn đóng tại Nha Sơn.




Bầy binh bố trận xong Chương tưởng thế là ung dung, không ngờ đùng một cái quân Nhật ồ ạt tấn công Nha Sơn khỏi cần tuyên chiến.




Tướng Thanh Diệp Chí Siêu chủ quan chẳng phòng bị gì nhiều, thế là chỉ một trận quân Siêu đã tan tành. Bộ quân đã vỡ, thuỷ quân đồn trú tại Phong đảo cũng co giò chạy. Tin bại trận chạy như một luồng điện về Bắc Kinh.




Quang Tự hoàng đế bị một cú bất ngờ bối rối hoang mang đến cùng độ, chẳng còn có chủ kiến gì nữa. Ngài vội chạy vào yết kiến Thái hậu.




Đã từ lâu rồi Quang Tự hoàng đế sủng ái hai nàng phi là Cẩn phi và Trân phi, cho nên hoàng hậu ghen tức thường chạy tới trước mặt Hoàng thái hậu tố cáo khóc lóc. Do Thái hậu đã sẵn không vui, nay thấy Quang Tự hoàng đế chạy vào hỏi ý về quân tình tại Nha Sơn thì bà cười nhạt một tiếng rồi bĩu môi mai mỉa:




- Ta đâu dám bàn tính đến chuyện đó? Sao hoàng đế không phái người thân tín của hoàng đế ra mà thương lượng điều đình?




Quang Tự hoàng đế bẽ bàng quá, vội trở về thư phòng triệu kiến sư phó ông Đồng Hoà kể qua việc quân tình ngoài biên ải, đồng thời cả lời cười mỉa của Thái hậu cho sư phó nghe.




Sư phó ông Đồng Hoà nghe rõ ràng gốc ngọn câu chuyện biết rằng Hoàng đế vốn tính trung hậu, nên trên thì bị hoàng thái hậu dùng quyền lực áp chế, dưới thì bị bọn thân vương thái giám bao vây lừa dối, càng cảm thấy thương ngài vô hạn.




Hoà bèn tâu:




- Hiện nay thời cuộc bên ngoài thật hết sức khó khăn mà bên trong lại nhiều chuyện. Hoàng thượng cần phải độc đoán mà chấn khởi kỷ cương triều đình lại một phen, mong tạo lập sự nghiệp oanh liệt mới được. Hoàng thượng hãy thu hồi đại chính của quốc gia vào tay, lúc đó mới có thể trấn phục được bọn bày tôi bên dưới. Chuyện này lũ Nhật cậy mạnh dấy binh, xin Hoàng thượng hạ lệnh hưng sư đánh tan lũ chúng.




Đại thắng chuyến này sẽ là dịp Hoàng thượng lập lại được oai quyền của mình trong cũng như ngoài. Và lúc đó cũng còn là lúc khỏi cần phải để tâm lo lắng quá nhiều về Thái hậu.




Quang Tự hoàng đế nghe lời ông Đồng Hoà, muốn khôi phục lại quyền hành của mình, bèn truyền dụ cho Lý Hồng Chương tích cực chuẩn bị chiến tranh. Chương nhận chỉ dụ trong lòng thực hết sức băn khoăn và tất nhiên không vừa ý nhất là tại chuyện bao nhiêu kinh phí của Hải quân, Hoàng thái hậu đã vét sạch để xây cất Di Hoà viên, song lệnh của Hoàng đế, Chương chẳng lẽ dám trái.




Chương bèn điều động hai tướng Nhiếp Quý Lâm và Tả Bảo Quý đem quân tới cứu ứng. Không ngờ quân của Lâm đại bại mà tướng Quý thì bị chết tại trận tiền.




Lục quân đã bất lợi, Lý Hồng Chương tính dùng thuỷ quân tiến đánh. Lúc này hải đội của Nhật Bản đã đánh vào Nhân Xuyên. Chương tức tốc truyền lệnh cho đề đốc Đinh Nhữ Xương điều động hải quân xông lên cứu viện, chiến thuyền của Trung Quốc lúc đó gồm có mười hai chiếc: Đính Viễn, Trấn Viễn, Lai Viễn, Tĩnh Viễn, Trí Viễn, Dương Oai, Liêu Dũng, Bình Viễn, Quang Giáp, Tế Viễn… Ngoài ra còn có tám chiếc thuỷ lôi đĩnh, lực lượng còn đủ để đương đầu với Nhật.




Đề đốc Đinh Nhữ Xương thấy đại quân Nhật tiến chiếm cửa bể Nhân Xuyên bèn nghĩ kế bao vây toàn bộ cửa bể này, nên vội xin chỉ thị của Lý Hồng Chương. Chương không dám tự quyết định, vội xin lệnh nha môn Tổng đốc.




Ban đại thần lúc đó được tin mở cuộc họp suốt nửa ngày để ra ý kiến với bốn chữ lớn: "Tương cơ hành sự" (tuỳ theo cơ hội thuận tiện mà làm việc). Khi bốn chữ về, tới đại bản doanh cũng chính là lúc bộ tham mưu đang sửa soạn bao vây hải cảng.




Hạm đội Nhật Bản chiếm xong cửa Nhân Xuyên xông vào sông Áp Lục. Đinh Nhữ Xương hạ lệnh khai pháo. Lúc này chiến thuyền của Trung Quốc còn cách hạm đội của Nhật Bản những chín dặm. Đại bác nổ ầm ầm. Nhưng bao nhiêu đạn đều rơi xuống bể, chứ không làm vỡ một mảnh ván nhỏ nào của chiến hạm Nhật.




Khoảng cách đôi bên mỗi lúc một ngắn. Giữa lúc Đề đốc Đinh Nhữ Xương đang định ra lệnh truy nã đại bác đợt nhì thì chiến thuyền du kích của Nhật đã mở máy phóng chạy như bay qua mặt sau, vây kín hạm đội Trung Quốc vào trung tâm rồi tức tốc trước sau giáp chiến.




Hạm đội Trung Quốc bị kẹt vào giữa, không còn lối nào thoát ra ngoài, chỉ còn cách tử chiến may ra có cơ tự thoát.




Súng nổ ỳ ùng, khói toả đen khắp cả một vùng bể rộng lớn. Sóng bể nổi lên như núi trắng xoá tiếp liền với nền trời trắng bệch tận phương xa.




Bị lâm vào mê hồn trận, chiến thuyền Trung Quốc chẳng bao lâu đã bị chia năm xẻ bảy, đầu đuôi không cứu nhau được.




Đề đốc Đinh Nhữ Xương ngồi trên soái hạm, phóng tầm mắt chỉ huy ra xa, chỉ thấy chiếc Trí Viễn bắn nhau kịch liệt với chiến thuyền Nhật, rồi bỗng chiến thuyền Nhật mở hết tốc lực xông thẳng vào thuyền Trí Viễn. Một tiếng nổ long trời, sóng nước vọt cao lên như núi rồi ầm ầm đổ xuống.




Thật đáng thương, chiếc Trí Viễn cả người lẫn thuyền chỉ một phút sau đã chìm nghỉm trong lòng đại dương không còn một tăm hơi vết tích nào nữa. Lân Vĩnh Thăng chỉ huy chiếc Kính Viễn chạy ở bên cạnh Trí Viễn, khi nhô lên lúc hụp xuống giữa khoảng sóng cao hơn núi, bọt trắng như tuyết, bắn trúng một thuyền địch vỡ toang khi chính nó cũng trúng một phát đạn ngư lôi tử thương, sườn toác ra, từ từ sủi bọt chìm dần xuống đáy bể.




Những chiến thuyền còn lại chiến đấu trong tuyệt vọng bị hạm đội Nhật xiết chặt vòng vây và lần lượt bị bắt mang đi.




Chiến thuyền duy nhất chạy thoát trong trận này là chiếc soái hạm của Đinh Nhữ Xương.




Thoát nạn, Xương vội cho chạy về bỏ neo ngoài cửa bể Lữ Thuận, bên cạnh đảo Lưu Công, một mặt đánh điện hoả tốc về báo cáo quân tình cho Lý Hồng Chương.




Về phía Nhật Bản, Minh Trị thiên hoàng nhân được tiệp báo liên tiếp bèn đích thân huy động đại, đội người ngựa đồn trú tại Quảng đảo, một mặt hạ lệnh cho Đại tướng lục quân là Sơn Hữu Minh chia quân tiến đánh Lữ Thuận và cửa Uy Hải, suốt một dọc bờ biển mục đích để vây khốn tàn quân Trung Quốc trong hải cảng để bắt sống.




Khi đoàn hải quân lục chiến đổ bộ được lên bờ, binh sĩ Nhật ào ạt xông vào công phá các pháo đài. Chiếm được các pháo đài, đoàn quân Nhật Bản quay họng súng lại nã trái pháo vào hạm đội Trung Quốc.




Thế là chỉ trong vài tiếng đồng hồ, toàn bộ hạm đội Trung Quốc đã tan tành như xác pháo, buồm lái trôi lềnh bềnh trên mặt bể trông thảm hại không thể nào tả xiết.




Trước tình cảnh này một viên chỉ huy pháo binh trên chiến thuyền Trấn Viễn tên gọi Lê Nguyên Hồng không chịu nổi bị thương, hét to lên một tiếng, co chân nhảy ùm xuống biển khơi tự vẫn. Nào ngờ khi Hồng lao mình xuống biển, có người trên chiếc Phi Ưng của Nhật Bản trông thấy. Thế là một chiếc ca nô được hạ thuỷ và xả hết tốc lực đến cứu Hồng. Bọn lính Nhật vớt Hồng lên, không làm khó dễ gì Hồng lại còn đưa Hồng về đảo Lưu Công.




Lê Nguyên Hồng tới đảo Lưu Công thấy Đinh Nhữ Xương ngồi trên soái hạm mãi đằng xa, trên mũi hạm có treo chiếc cờ trắng tự bao giờ! Hồng hỏi dò mới biết Xương đã viết thư cho viên Đại tướng Nhật Bản, yêu cầu bảo toàn tính mạng cho binh sĩ toàn thuyền rồi tự uống thuốc độc chết.




Đại thắng mấy trận liền, quân Nhật tiến vào nội địa Trung Quốc như vũ bão. Lục quân hết ngày này qua ngày khác báo tiệp, nào chiếm Cửu Liên thành, nào Phụng Hoàng thành, nào hãm Cái Châu, nào Đại Liên, nào Tu Nghiêm, nào Hải Thành, nào Lữ Thuận…




Tin thất bại ngoài biên cương, tin thất thủ liên tiếp bao nhiêu thành trì chạy về kinh như bươm bướm. Quang Tự hoàng đế hốt hoảng đến cực độ vội cho mời sư phó ông Đồng Hoà vào cung hỏi kế.




Hoà lúc này cũng vô kế khả thi. Còn đám văn võ bá quan khắp triều thì kẻ nào cũng lo riêng mạng mình, sợ riêng cho gia đình mình, đều một loạt quỳ xuống lậy xin Hoàng đế giảng hoà. Chẳng phải nói ai, ngay cả đến Từ Hi thái hậu cũng oán giận Quang Tự hoàng đế đã nghe lời ông Đông Hoà khai chiến với Nhật Bản một cách dại dột.




Thái hậu nói thêm, vừa nhiếc móc, vừa bó buộc Quang Tự hoàng đế phải theo ý kiến mọi người.




- Hoàng thượng nghe lời ông sư phó khai chiến với Nhật, nay đã thành chuyện bại quân nhục nước, ấy thế mà còn không mau mau giảng hoà với họ, ý còn muốn đọi đến khi giặc đến chân thành cắt đất xin hàng nữa chăng. Ôi! Lúc đó hoàng thượng dù có hối, ta e đã quá muộn rồi!




Quang Tự hoàng đế đã từ lâu thường nghe những lời ỉ oi, nhiếc móc tương tự như câu nói trên, hơn nữa lại thấy mình lực lượng quả đơn chiếc khó thể cưỡng lại mọi người, đành chỉ còn cách sai Lý Hồng Chương làm nghị hoà toàn quyền đại thần mở một cuộc hoà đàm với sứ thần Nhật Bản là Y Đằng Bác Văn. Đây là cuộc nghị hoà lần thứ nhất giữa Nhật và Trung Hoa trong cuộc xung đột còn dài về sau.




Kết quả cuộc hoà đàm ra sao? Trung Quốc bỏ Triều Tiên, cắt Đài Loan cho Nhật, bồi thường chiến phí, chút xíu nữa mất luôn cả Đông Tam tỉnh.




Sở dĩ Đông Tam tỉnh không mất là tại ba nước Nga, Đức, Pháp buộc Nhật phải trả lại cho Trung Hoa.




Từ khi thất bại trong cuộc chiến với Nhật, Quang Tự hoàng đế đâm ra chán nản sự đời. Mọi việc đại sự của triều đình, Ngài chẳng thèm để ý tới nữa, và lại mời hoàng thái hậu buông rèm nghe việc triều chính như cũ. Ngài quay ẩn mình trong thâm cung, suốt ngày mua vui với người đẹp Cẩn phi, Trân phi.




Hồi đó vào giữa lúc giao thời xuân hạ, Quang Tự suốt ngày giấu kín mình trong cung sâu, cũng có lúc cảm thấy buồn. Ngài truyền chỉ ngày mai bày giá qua chơi Tây Uyển.




Vườn Tây Uyển còn có tên là Tây Hải Tử, chu vi tới vài dặm, phía trên vườn, bắc một chiếc cầu đá dài tới năm sáu trăm bước. Cầu toàn bằng đá trắng, lan can, chấn song đều trạm trổ hết sức tinh vi.




Ở hai mặt đông cũng như tây cầu, có xây hai trụ cổng nghi môn đứng cao nghệu, trụ mé đông thì gọi Ngọc đông, còn trụ mé tây thì gọi Kim ngao.




Giữa hồ nước, nổi hẳn lên một bãi đất cao, gọi tên là Quỳnh Hoa đảo, bên trên, xây cất nào lâu đài, nào đình gác nguy nga san sát. Người ta cũng thấy một chiếc nữa cũng bằng đá, tiếp thông với đảo Quỳnh Hoa.




Ở hai mặt nam và bắc cầu này cũng có hai cái trụ nghi môn, bên trên đầu mỗi trụ có khắc một cái biển vuông, một biển đề hai chữ "Tích Thuý" còn một biển đề hai chữ "Đôi Vân".




Giữa hồ, trên đảo Quỳnh Hoa, về mặt nam thì có Doanh Đài ở mặt bắc thì có Ngũ Long đình; còn Tiêu viên và Tử Quang các thì lại đối diện nhau và cách qua một con lạch nước.




Trong hồ, lá súng đội nước lên nhấp nhô, điểm những đoá hoa màu tím xinh khêu gợi. Rồi sen xanh ngào ngạt hương đưa, lộ lên cao ít đoá bạch liên trông trinh trắng như những thiếu nữ còn đương tuổi cấm cung.




Một vài tảng bèo cám xanh xanh, đo đỏ, trôi bập bềnh đó đây, bên cạnh mấy con vịt đang nhởn nhơ bơi lội trên mặt sóng lăn tăn, càng làm tăng phong cảnh hồ thêm phần thơ mộng. Chưa hết, trên ngọn cây, trong chòm lá biếc, đàn chim xanh ríu rít chuyền cành.




Đôi con chim oanh lông màu vàng khươm lên giọng hót líu lo rồi bỗng xoè đôi cánh bay vút lên không trung xa tít. Trong khi đó, đàn cá vàng đang nhởn nhơ đùa nhảy trên mặt hồ nước trong mát, làm cho mặt hồ vốn thường yên tĩnh bỗng xôn xao, ầm ỹ lên chốc lát, để rồi lại nằm im trong mơ mộng.




Nếu đứng xa một chút mà ngắm, thì toàn thể Tây Uyển chẳng khác gì một bức gấm thêu muôn sắc ngàn màu, hội đủ hết những cái đẹp của vũ trụ thiên nhiên vào nơi đây, mục đích hình như hoá công muốn dành riêng cho những giai nhân tuyệt sắc chốn nhân gian.




Người sau đã làm thơ ca tụng Tây Uyển như sau: (Tạm dịch)




Đảo thắm rừng xanh gác điệp trùng.




Khói mây sớm tối mịt mờ trông.




Cột treo buồm gấm bay quanh phượng.




Bệ nước sâu vàng uốn khúc long.




Dưới bóng cây râm hơi gió lặng.




Trước hiên yến tiệc rượu hương nồng.




Thân này ngờ tự trời kia xuống.




Dao đảo là đây mới lạ lùng?




Quang Tự hoàng đế giá hạnh Tây Uyển đúng vào một buổi sáng đẹp trời. Trên điện, yến tiệc đã bày biện sẵn sàng, nào là trân tu mỹ vị, nào là rượu ngon chén ngọc, tất cả đều đầy đủ cho một khung cảnh phú quý thần tiên.

Hồi 158 Cái bàn đèn của Tây thái hậu




Hôm đó, Quang Tự hoàng đế giá hạnh Tây Uyển. Trên điện đã bày yến sẵn sàng. Cẩn và Trân hai phi luân phiên chuốc chén, hầu hạ hoàng đế mặc sức vui say.




Đã từ hai chục năm, khi còn là một chú bé, Quang Tự hoàng đế được bế vào cung, ăn uống, ngủ nghi, chơi đùa, tất tất đều phải tuân theo ý Thái hậu, lúc nào cũng bị trói buộc vào thì khuôn phép, ra thì luật lệ, có bao giờ được cái cảnh tự do tự tại, tha hồ vui say, du ngoạn như hôm nay.




Bọn cung nữ và thái giám thấy Hoàng đế ngồi ngất ngưởng trên điện uống rượu mua vui bên cạnh người đẹp, cũng nháy nhau lẻn ra ngoài, ai lo chuyện người đó.




Có kẻ thì ra ngồi nhìn mặt nước phẳng lặng trên mặt hồ bên cạnh ngọn giả sơn, có kẻ lại chui vào trong bụi hoa, cạnh khóm trúc, trước hàng lan can vẽ rồng chạm phượng; lại cũng có những bọn túm ba tụm năm kéo nhau đi ngắm hoa đây đó, hoặc buông câu bắt cá, cười đùa khúc khích trên những phiến đá lớn ven hồ; và cũng còn có những bọn cùng nhau tựa cạnh bao lơn vui đùa ca hát buông những tiếng thầm kín hoặc véo von lên không trung giữa khoảng trời xanh mây biếc.




Quang Tự hoàng đế nhấp mấy chung rượu rồi thong thả đứng dậy, dắt tay hai nàng phi bước xuống điện, phía sau có một toán cung nữ và thái giám theo hầu.




Ngài bước chầm chậm qua phía trước mấy ngôi đình viện. Những đoá hoa xinh tươi thơm phức chạm vào mặt ngài như có ý ghẹo ngài. Mấy đọt cỏ non xanh khẽ lướt qua áo ngài, như thèm muốn giữ ngài lại nơi đây kẻo mất một giờ phút mê ly hiếm có giữa trần hoàn. Hết khóm hoa này tới hàng bông khác, chỗ nào cung chỉ thấy màu sắc là màu sắc.




Cất bước quanh quẩn một hồi, Quang Tự hoàng đế đã tới gác Tử Quang. Liếc mắt về phía đông, đầu ngọ tường vôi, ngài bỗng thấy dưới gốc cây hoa hạnh có đến vài chục tên cung nhân trải chăn trên thảm cỏ, dưới tàn hoa lá, ngồi xếp bằng cạnh nhau, vừa chuốc chén vừa ca hát, vô cùng cao hứng.




Bọn thái giám theo hầu hoàng đế đang tính chạy tới quát mắng, thì Quang Tự hoàng đế vội xua tay ngăn lại và dặn đừng làm rộn họ, đoạn ngài đem theo hai nàng phi đi vòng ra mé sau cây hoa hạnh lắng tai nghe trộm.




Bỗng một tiếng hát nhẹ nhàng êm ái vọng lên giữa không gian yên tịnh, có những tiếng vỗ tay gõ nhịp hoạ theo. Thì ra đó là tiếng ca của một con cung nữ người nhỏ nhắn xinh xinh.




Bài ca bắt đầu, Quang Tự hoàng đế không để sót một lời nào!




"1. Chứ nào tại nơi đâu gió xuân ương thứ cái váy tơ mịn màng?




Chứ này cái áo lụa, chứ này cái quần lụa, chứ này cái giải lụa mỏng manh rỡ ràng!




Phập! Phập! Phập phàng!




2. Chứ nào tại nơi đâu, trong đêm khuya, cái cặp môi son kia luông những thì thầm?




Chứ này sinh cái củ hành, chứ nây sinh cái củ tỏi, chứ nay sinh cái củ hẹ rủ tai nhau rì rầm.




Ký cẩm! Câm! Kỳ câm!




3. Chứ nào tại nơi đâu có cái vò mỹ tửu Uất Kim Hương lấy mãi tận Lan Lăng?




Chứ để cho ta cất chén mà nhắp, mà bút, mà nốc ngay bên cạnh cái con dao nung đỏ hừng.




Khó! Khó! ấy mới khó mần răng?




4. Chứ nào tại nơi đâu có cái làn tóc mây chải búi, điểm tô như trên Cung Quảng chị Hằng này?




Chứ kia trên đầu, cái làn tóc mây cao hai thước! Loã xoã lù xù phủ kín cái mặt dày!




Mọi! Mán! Mẹ Mán! Ngây ngây!




5. Chứ nào tại nơi đâu có cái cặp uyên ương đêm đêm đậu bên cái bức trướng tiêu kim?




Chứ kìa mây bay rồi mây chạy, nhưng mưa ở phương nào mưa vẫn bặt tin?




- Ôi! Cái giường! Giường đất! Còn khem!".




Quang Tự hoàng đế nghe xong bật cười. Bọn cung nữ nghe tiếng cười, giật mình nhớn nhác thì vừa lúc Quang Tự hoàng đế tay trái cặp tay Trân phi, tay phải khoác vai Cẩn phi, vẻ mặt vui tươi hí hửng đang thong thả bước đến.




Bọn cung nữ vội vàng quỳ xuống đón tiếp. Quang Tự hoàng đế truyền dụ cho phép bọn này khỏi phải giữ lễ, hãy cố lựa một bài tuyệt hay, tuyệt ngộ ca cho ngài nghe.




Bọn thái giám thấy Hoàng đế có ý muốn nghe hát, bèn chạy vội đi kiếm một chiếc ghế tiêu dao, đặt trên thảm cỏ xanh rờn, thỉnh ngài ngồi.




Trân phi cao hứng cũng truyền dụ mang tới cây đàn "Tam huyền cổ bản" để ca.




Giữa lúc sắp đàn định ca hát, bỗng thấy Lý Liên Anh hấp tấp chạy tới, quỳ xuống trước Quang Tự hoàng đế vội tâu:




- Thỉnh vạn tuế gia mau mau về cung? Lão Phật gia có xem một tờ sớ rất quan trọng, đang cần mời vạn tuế gia về bàn tính.




Quang Tự hoàng đế vốn sợ thái hậu, cho nên vừa nghe có lệnh truyền vội vàng bày giá trở về cung ngay.




Tây thái hậu lúc đó đang cùng với bọn đại thần, vương công xem một tập tấu chương đựng trong một cái hộp bằng giấy vàng tại điện Cần Chính, thấy Quang Tự hoàng đế bước vào bèn đưa tập tấu chương cho nhà vua.




Quang Tự hoàng đế xem thì ra đó là tờ sớ của Quân cơ đại thần Vinh Lộc, nội dung thỉnh Hoàng thái hậu rời gót ngọc vào Di Hoà viên để cử hành điển lễ khánh chúc vạn thọ.




Cứ mỗi lần ngồi bên cạnh Hoàng thái hậu duyệt xong tờ sớ nào, Quang Tự hoàng đế lại trả lại nguyên chỗ của nó, tức là lại đặt vào trong cái hộp bằng giấy vàng đó, mà chẳng nói một lời nào.




Đôn thân vương đứng chầu một bên thấy vậy, không muốn chờ lâu thêm nữa, bèn tâu thỉnh hoàng thượng và Hoàng thái hậu chuẩn y lời tấu của Vinh Lộc là vào quãng tháng mười cử hành đại điển vạn thọ.




Tây thái hậu nghe đoạn lắc đầu, xua tay lia lịa nói:




- Thôi! Thôi! Bọn ta đường đường là một nước Đại Thanh thế mà bị mấy thằng lùn Nhật Bản đánh bại, phải cắt đất bồi thường! Cái mặt ta đây cũng không còn vác lên nổi với thiên hạ, thì còn lòng nào mà đi dạo hoa viên nữa chứ?




Quang Tự hoàng đế biết đây là những chế giễu mai mỉa của Tây thái hậu, chi còn biết gục đầu xuống, miệng ngậm thinh như hến. Bầu không khí vô cùng nặng nề. Bọn đại thần bèn họp lại với nhau bàn tính. Họ thoả thuận với nhau thảo một đạo chỉ dụ đình chỉ việc khánh hạ, đệ trình lên hai cung rồi ban xuống cho thần dân. Tờ chỉ dụ như sau:




"Tháng mười năm nay, ngày khánh đản lục tuần của ta, khắp nước mừng vui, cùng cảm sâu niềm hoan lạc!




Đã đến ngày hoàng thượng đứa các thần công trong ngoài tới Vạn thọ sơn để làm lễ khánh hạ. Tất nhiên từ Đại nội đền Di Hoà viên, dọc đường đi qua, thần dân ai cũng muôn trần thiết kinh đàn, chưng bày lễ vật, để báo hiệu công đức.




Ta nhân khoảng Khang Hi, Càn Long, sùng long thịnh điển thành hiên để lại sau, hơn nữa, lại gặp lúc dân khang vật phụ, bốn bể binh an, cho nên không thể chối từ, đành nhận lời mời của Hoàng thượng thụ hà tại Di Hoà viên.




Bất ý tháng sáu vừa qua bọn giặc lùn (Nhật Bản) gây hấn xâm phạm phiên trấn của ta, lại còn phá nát cả binh thuyền!




Bất đắc dĩ, ta phải hưng sư phạt tội, gây việc can qua, điều binh chinh tiễu. Do đó sinh linh cả đôi nước đều phải chịu cái cảnh máu sông xương núi.




Cứ mỗi lần nghĩ tới ta càng lấy làm xót thương buồn bã. Trước đây, khi cám cảnh khổ đau của sĩ tốt lúc lâm trận, ta đã đặc cách ban phát ba trăm vạn lạng vàng của kho, mục đích để tư trợ, lân tuất mong hàn gắn cảnh đau lòng.




Bởi thế cho nên dù cái ngày khánh đản đa gần kề thử hỏi còn có lòng nào mà du ngoạn vui chơi và nhận những lời mừng chúc nơi Đài Lai?




Vậy nếu có gọi là đôi chút điển lễ của ngày khánh đản đi chăng nữa, thì cũng chỉ nên cử hành ngay tại trong cung mà thôi. Tất cả công cuộc mừng chúc tại Di Hoà viên phải tức khắc đình chi.




Khâm thử".




Kính vâng chỉ ý của hoàng thái hậu như trên, lòng Trẫm thực có chỗ không yên! Đã đôi ba lần, Trẫm cố gắng nài xin, nhưng chưa được hoàng thái hậu vui lòng chấp thuận.




Với thịnh đức ấy, Trẫm thực chẳng dám chẳng tuân theo từ ý. Bởi thế, Trẫm, đặc dụ cho toàn thể thần dân trong cũng như ngoài đều phải nhất tề hiểu rô.




Khâm thử".




Quang Tự hoàng đế thấy vẻ mặt của Tây thái hậu hầm hầm tức giận, và truyền dụ đình chỉ cuộc khánh điển, nhất định không thèm tới Di Hoà viên, thì trong lòng buồn bã không vui!




Ngài bèn tìm lời ngon lẽ ngọt để an ủi thái hậu:




- Hiện nay, Thanh triều ta đã cùng Nhật Bản giảng hoà, quốc gia đã lại thanh bình. Tuy rằng đã hạ dụ đình chỉ khánh điển, song cũng vẫn xin Lão Phật gia cho phép thần dân dâng lễ thượng thọ. Đúng ngày hôm đó, kính xin Lão Phật gia vui lòng qua chơi bên Di Hoà viên như cũ!




Đôn thân vương đứng một bên cũng lên tiếng phụ hoạ:




- Thực ta khó có được một vị chủ tử có lòng hiếu hảo đến thế! Chỉ kính mong Lão Phật gia rộng lượng cho phép bọn nô tài, đến đúng ngày vạn thọ của Lão Phật gia, được vào trong Di Hoà viên để dập đầu chúc lạy trước Lão Phật Gia.




Bọn nô tài cũng xin Thái hậu hôm đó rộng lượng khai ân, thưởng cho họ được đi thăm dạo trong vườn một lượt.




Trước những lời lẽ khôn khéo của Đôn Than Vương, lòng giận tức của Thái hậu quả đã có nhiều phần chuyển đổi.




Tự nhiên, bà cảm thấy lòng mình nhẹ hẳn đi. Bởi thế bà se sẽ gật đầu, tỏ ý đã ưng thuận. Giữa lúc đó thì một tên tiểu thái giám bước vào, kính thỉnh Lão Phật gia dùng cao Phúc thọ. Thế là một bọn cung nữ hầu hạ đưa Thái hậu vào thâm cung.




Cao Phúc thọ là cao gì vậy? Chẳng phải cao gì đâu chính là thuốc phiện đó.




Từ cuối đời Đạo Quang, Trung Quốc thua trận, phải mở cửa bể ra thông thương với ngoại quốc. Người Anh liền kìn kìn chở thuốc phiện vào khắp nước để bán lấy vàng và làm giàu.




Chẳng bao lâu quần chúng Trung Hoa "xực" phải cái "yến" này, thân càng gầy còm, vóc dáng càng ngày càng teo tóp, có kẻ chỉ còn lại có bộ xương trông thảm thê vô cùng.




Trong làng nghiền này, bỗng xuất hiện tại tỉnh Quảng Đông, một tay trứ danh về nấu yến, tên gọi Lục Tác Đồ. Yến do Đồ nấu thơm ngon lạ thường, không ai bắt chước nổi.




Nhờ đâu mà Đồ có biệt tài ấy? Trước hết, Đồ có một cái giếng nước đã trong, lại có một màu xanh xanh trông đẹp lạ, nhất là khi múc một ít đổ vào trong một cái bát kiểu Giang Tây. Phải múc nước giếng này đem nấu yến thì yến mới ngon thơm! Thay bằng một loại nước giếng khác, dù trong ngọt đến đâu cũng chẳng có cách gì làm cho yến thơm được như vậy! Đó mới là điểm thứ nhất.




Điểm thứ hai vì Đồ có một phương pháp bí truyền trong kỹ thuật nấu yến. Bí pháp này, ngay cả đến con trai cũng không được Đồ truyền dạy. Người duy nhất được biết là bà Quách thị, vợ Đồ.




Hồi đó, các phú gia, đại hộ tỉnh Quảng Đông, tất cả đều phải nhờ bà Quách tới nấu yến giùm cho. Cứ mỗi lần nấu như vậy là phải trả hai lạng bạc tiền công. Nhờ đó, bà Quách lượm được khá nhiều tiền bạc.




Cái thứ yến hảo hạng số một Quảng Đông mà viên Tổng đốc Lưỡng Quảng thấy ngon thơm quá, bèn sai bà Quách nấu một nồi bự, xong rồi đưa lên kinh để hiếu kính Thái hậu.




Tây thái hậu dùng xong khen lấy khen lấy khen để, đặt ngay cho cái tước hiệu "Cao Phúc thọ".




Từ đó trở về sau, kẻ nào được làm Tổng đốc Lưỡng Quảng cần phải biết một lệ quy đặc biệt: đó là cứ hằng tháng, bắt buộc phải nấu cho bằng được một nồi yến thơm ngon này để đưa về kinh hiếu kính thái hậu.




Điểm đặc biệt nữa là Thái hậu còn truyền dụ bắt thưởng cho bà Quách, mỗi tháng hai trăm lạng bạc. Cũng vì vậy, danh tiếng Quách thị nổi lên cao như núi, đến nỗi từ anh quan đại thần đến tên cùng đinh trong ngõ hẻm, ai cũng đều biết cả.




Thế là khắp các tỉnh Trung Quốc, bọn văn quan võ tướng cỡ bự, có duyên nợ với ả phù dung, thế nào cũng phải nhờ cho bằng được Quách thị nấu yến.




Nói đến chuyện Tây thái hậu dùng yến, không ai có thể quên cái dọc tẩu trứ danh của bà.




Nên nhớ rằng dọc tẩu, bàn đèn, tiêm, móc lọ, be, chén, tất cả mọi đồ nghề lỉnh kỉnh, thảy đều từ Quảng Đông đưa về.




Cái dọc tẩu trứ danh của bà thái hậu bằng trúc - tất nhiên phải là thứ trúc đặc biệt, ví dụ như trúc hoá long - to chỉ bằng cổ tay đứa trẻ mới sinh. Miệng tẩu bằng một ống nhỏ gắn ngay ở đầu. Dọc tẩu này có một cái giá. Lúc hút, Thái hậu đặt dọc tẩu lên trên giá, cao thấp, xa gần, tuỳ ý muốn để thế nào cũng được.




Khi một tên tiểu thái giám tiêm thuốc cho Thái hậu, hắn phải quỳ xuống đất, nâng cái dọc tẩu hơ trên ngọn đèn dầu lạc để cho bà chỉ còn mỗi việc là ngậm vào ống hút.




Thực ra dọc tẩu của Tây thái hậu có khá nhiều. Nhưng trong số đó, duy chỉ có cái tẩu của Hàm Phong hoàng đế thuở nọ để lại cho bà là quý giá nhất. Lâu năm lâu tháng, cái vỏ trúc của dọc tẩu này đã lên nước, một màu hồng nhuận sáng trơn, mịn, trông chẳng khác gì màu hồng ngọc.




Một hôm, Thái hậu đã trở về cung, giữa lúc đang dùng yến, bỗng thấy Lý Đại cô nương rón rén bước vào, bò sát lại gần rỉ tai bà mấy câu, thì thầm chẳng biết những gì mà mặt bà tự nhiên biến sắc.




Thực thế, thái hậu đã nổi giận, giận đến nỗi cái dọc tẩu đang cầm trong tay bị bà quăng mạnh xuống đất, phát lên một tiếng "rắc", thế là cái dọc tẩu gãy nát, cục thuốc bự cũng vương vãi khắp mặt đất!




Lý Liên Anh lúc đó cũng có mặt vội chạy tới chỗ cái dọc tẩu gãy nát, lượm lên mấy mảnh, đoạn bảo một tên tiểu thái giám đi gọi thị vệ vào đem ngay ra phố giao cho tiệm đồ cổ Phúc Kỳ sửa gấp. Thái hậu như chưa hả giận còn ném tiếp cái tiêm xuống chiếu, và ngồi nhỏm dậy, quát lớn:




- Bắt điệu ngay con tinh hồ ly đó lại cho tao! Phải chính tao hỏi con khốn nạn đó mới được!




Nguyên Lý cô nương vốn là em gái của Lý Liên Anh. Chỉ vì thấy anh mình được thái hậu sủng ái, nên nàng ta mè nheo anh phải cho mình vào cung chơi cho bằng được. Anh không những dám đưa em gái mình vào cung cấm, mà còn cả gan đưa thẳng vào gặp Thái hậu nữa là khác.




Bình sinh, Tây thái hậu rất thích bọn con gái. Phàm bọn cung quyến thường hầu hạ, trò chuyện vui cười bên cạnh thái hậu, quá nửa đều là mấy cô cách trong Tôn Thất (họ nhà vua) nếu không thì cũng phải là những cô nương trẻ đẹp được chọn lựa trong số gia quyến ba Kỳ như Chính Hoàng, Nhương Hoàng, Chính Bạch.




Ngoài các cô con gái trẻ măng này còn có một số ít mụ sồn sồn, nhưng lại lanh lẹ hết cỡ, giỏi nói tài cười, ít người sánh kịp, hoặc còn có cái tài thư, hoạ, cầm, kỳ, nhởn nhơ suốt ngày ở bên cạnh thái hậu để chờ lệnh sai khiến. Trường hợp hiếm hoi một số bà mệnh phụ có chồng thì cứ vài ba tháng, thái hậu lại cho về thăm nhà một lần.




Hôm đó, Tây thái hậu thấy em gái Lý Liên Anh, người đã đẹp ăn nói lại lanh lẹ, duyên dáng, thế là bà giữ lại ngay trong cung, coi như một cung quyến…




Hoàng hậu của Quang Tự hoàng đế nguyên là cháu ruột Tây thái hậu, điều rắc rối là hoàng đế lại chán ghét hoàng hậu. Do đó, làm gì ngài cũng thường giấu, thường tránh bọn tai mắt của hoàng hậu, trái lại chỉ nói cho hai phi Cẩn và Trân mà thôi. Đã thế ngài lại hay tới cung của Trân phi để ăn ngủ tại đây. Chính ở chỗ kẻ ấm người lạnh này, hoàng hậu không khỏi ghen tức. Nàng hay chạy sang mách với Thái hậu. Thế là thái hậu bèn nghĩ ngay cho nàng một chủ kiến.




Tây thái hậu thường sai em gái Lý Liên Anh lảng vảng qua chơi bên cung hoàng đế để dò la tin tức, về báo cho bà nghe. Bọn cung nhân trong cung thái hậu đều gọi ả là Lý Đại. Được mật lệnh này, Lý Đại ngày ngày hầu hạ bên cạnh hoàng đế, đổi luôn cái tên đi, khiến Quang Tự hoàng đế cũng như Cẩn phi và Trân phi, chẳng ai biết ả Lý là tai mắt của thái hậu.




Một hôm, Quang Tự hoàng đế đem cả hai Cẩn và Trân phi sang Tây Uyển du ngoạn. Được tin này, Lý đại cô nương lén cho người về báo cáo với thái hậu và hoàng hậu.




Hoàng hậu lúc đó máu ghen nổi lên ngụt trời, vội chạy tới khóc lóc với thái hậu:




- Giữa lúc quốc gia nguy bách như thế này, vậy mà hoàng thượng vẫn một mực mê luyến nữ sắc; chẳng hỏi han chi tới triều chính. Ví thử từ đây ngài sinh ra hồn ám đắm say. há chẳng phải là cả một giang sơn gấm vóc, cả một triều đại hàng trăm năm xây dựng đã lọt vào tay một tên hôn quân chăng? Muôn ngàn lạy xin Lão Phật gia đứng làm chủ cho cứu vớt hoàng thượng ra khỏi cơn ác mộng này!




Thấy hoàng hậu tới cung khóc lóc, Tây thái hậu bèn bảo:




- Gia pháp của nhà Đại Thanh ta nay để đâu?




Chỉ một câu nói này thôi cũng đủ làm cho hoàng hậu tỉnh ngộ. Thế là hoàng hậu vội vã dập đầu trước Thái hậu và trở về cung.




Một mặt, Tây thái hậu mượn tiếng xem tấu chương, cho triệu hồi hoàng đế vào cung nội cấp ký. Thực ra, ngày thường thái hậu xem tấu chương có bao giờ gọi hoàng đế tới cùng xem đâu?




Bởi thế, nghe nói Thái hậu triệu mình tới để xem tấu chương, Quang Tự hoàng đế đã hiểu ngay có gì không ổn rồi! Khi gặp Thái hậu, quả nhiên thấy bà đầy mặt giận tức.




Và trong lúc nói chuyện, ngài thấy thường nói bóng nói gió, có ý khuyên ngải không nên đi du ngoạn hoa viên, tự tìm khoái lạc cho riêng mình.




Hoàng đế cắn môi lặng thinh, định bụng im cho qua chuyện. Nhưng ngài biết đâu rằng cũng lúc này, hai phi Cẩn và Trân của ngài đã bị hoàng hậu triệu tới cung Khôn Ninh và đưa gia pháp ra, đánh cho hai nàng một trận đòn nên thân, buộc hai nàng từ đây cấm không được mê hoặc hoàng thượng.




Trong số hai phi tử, Trân phi quả là một trang giai nhân sắc nước hương trời. Hoàng hậu nhìn thấy nàng, quả thật không chịu nổi lòng riêng cào xé. Bởi thế bà dặn lũ cung nhân đánh Trân phi đến chết đi sống lại.




Thật đáng thương cho Trân phi, liễu yếu đào tơ làm sao mà chịu được đòn ghen? Khi hoàng đế nghe tin chạy tới thì Trân phi chỉ còn lại cái xác gần như không hồn, khuôn mặt xinh tươi ngày nọ nay đã mất hết sắc xuân. Ngực chi còn thoi thóp, đôi mắt lờ đờ nhìn hoàng đế, đôi dòng lệ trào ra trôi trên má, và vài tiếng nức nở nghẹn ngào trong cổ họng.




Quang Tự hoàng đế thấy tình cảnh Trân phi như vậy, bất giác nổi trận lôi đình, nghiến đôi hàm răng ken két nói:




- Con mẹ già khốn nạn độc ác thiệt! Một ngày nào đó thế nào mi cũng phải chết vì tay ta!




Quang Tự hoàng đế vừa vuốt ve vừa tìm lời an ủi Trân phi và cho gọi ngự y tới chữa chạy rồi quay mình ra đi.




Quang Tự hoàng đế đi sang thư phòng, gọi viên tổng quản tới, và cho đi mời ông sư phó vào ngay cung nội cho ngài hỏi ý…




Được lệnh triệu, ông Đồng Hoà theo gót tên tổng quản vội vã vào cung.




Khi tới ngự thư phòng, Hoà thánh lễ và được phép ngồi xuống ghế. Quang Tự hoàng đế, mặt hầm hầm, bực tức nói:




- Trẫm làm vua, mang tiếng là chí tôn trong thiên hạ, thế mà chỉ có mỗi một phi tử cũng không bảo vệ nổi! Thật là đáng xấu hổ!




Nói đoạn, nhà vua bèn đem hết chuyện hai phi Cẩn, Trân bị hoàng hậu đánh đập tàn nhẫn như thế nào kể lại cho Hoà nghe. Hoà rõ chuyện xong, bèn thừa dịp tâu vào:




- Trước đây, ngư thần đã có lần tâu: quyền bính của bệ hạ phần nào rơi vào tay người, cần phải tìm cách thâu hổi, sau đó mới độc đoán, độc hành, tự giải quyết hết mọi việc, nắm trọn quyền binh vào tay mới được. Như thế, đừng nói đến thân vương, hoàng hậu, mà ngay cả hoàng thái hậu cũng nhất định nể sợ bệ hạ một phép.




Quang Tự hoàng đế gật đầu nói:




- Ý của sư phó quả đúng là một phương pháp trị từ gốc. Cái ý thâu hồi quyền bính, trẫm đã nghĩ tới không biết bao lần. Song trẫm vẫn ngại có hoàng thái hậu và cả một bọn thân vương bên cạnh. Theo sư phó nay trẫm nên làm thế nào để cho mọi việc được vẹn toàn.




Ông Đồng Hoà tỏ vẻ suy nghĩ một lát rồi tâu:




- Kế hoạch đã sẵn, nhưng không biết bệ hạ có dám thực hiện hay không thôi!




Quang Tự hoàng đế nói:




- Tất cả cái gì có lợi cho trẫm là có thể thực hiện được hết Có điều nếu trẫm hành động như vậy, không biết thái hậu và bọn thân vương nghĩ gì về trẫm?




Ông Đồng Hoà nói:




- Nếu lòng bệ hạ đã quyết như vậy thì bệ hạ nên nhân dịp Thái hậu suốt ngày vui chơi tại Di Hoà viên mà quyết đoán tài phán tất cả những tấu chương của bọn quan lại ở ngoài kinh đô, rồi nhất nhất phê đáp do ý bệ hạ. Vạn nhất có chuyện khẩn yếu quan trọng lắm, lúc đó mới thương lượng với thái hậu mà thôi. Đang khi vui chơi, không muốn bận tâm vào chuyện khác, hơn nữa, lại thấy bệ hạ chu tất hết mọi việc, thái hậu ắt vui lòng, yên tâm tận hưởng nhàn lạc, quyết không có điều chi nghi ngại. Thái hậu vốn biết bệ hạ là người trung hậu chân thành, ắt tưởng rằng bệ hạ không bao giờ có ý đồ chuyên chính. Dần về sau, dù có viện khẩn cấp quan trọng đi nữa, bệ hạ cũng khỏi cần hỏi ý kiến thái hậu. Lúc đó, quyền chính đương nhiên là đã trở về với bệ hạ và bệ hạ cứ việc thẳng tay tước bỏ quyền hành trong tay một số vương công đại thần thời trước, đồng thời từ bỏ các quy chế bất hợp lý, thực hiện một cuộc cải cách lớn. Nhờ đó quốc sự ngày càng sáng sủa, thiên hạ tiến tới chỗ đại trị, tất nhiên trong ngoài đều tán dương bệ hạ, cho bệ hạ là một bậc minh quân. Đến lúc này, ví thử thái hậu có ý muốn can thiệp vào chăng nữa thì cũng tự nhận thấy mình không sao làm nổi, thử hỏi còn có cái gì gọi là đáng sợ cho bệ hạ nữa không?




Quang Tự hoàng đế nghe ông Đồng Hoà trình bày một thôi những ý kiến hay đẹp như vậy, bất giác đâm ra cao hứng, hăng hái bảo ông Đồng Hoà:




- Sư phó đã vì trẫm mà thiết kế lập mưu, thì quyết chẳng thể nhầm lẫn được. Trong triều đình hiện nay, người có lòng trung thành đối với trẫm, ngoài sư phó ra, chỉ còn có Lý Hồng Chương song trẫm e rằng Chương không dám mạo hiểm làm công việc này! Còn như bọn Lưu Khôn thì lại đều là ngoại thần, ở các tỉnh xa, nhất thời không tiện gọi về. Như vậy, bên cạnh trẫm quả thực tả hữu không người giúp rập. Xét cho kỹ, thì không một kẻ nào quanh trẫm hiện nay lại không thuộc phe đảng của thái hậu. Ngay cả đến bọn nội thị, lũ hoạn quan, chúng cũng đều có ý dò xét rình rập những cử chỉ, những hành động của trẫm nữa! Đến cái lúc gay cấn nguy hiểm này, nếu không có lấy năm, bảy người thân tín để hành động thì nhất định việc khó thành được.




Ông Đồng Hoà vội tâu tiếp:




- Nếu nói đến nhân tài, xin bệ hạ khỏi lo. Bản triều ta vốn có vài tay kiệt xuất đáng mặt anh hào; chỉ tiếc rằng bọn thân vương lộng quyền, đã dìm mất thanh danh của họ. Thật là một điều đáng tiếc!




Quang Tự hoàng đế nói:




- Việc đã đến lúc quá gấp rồi! Ông sư phó, nếu thấy ai là người có tài, xin cứ việc tiến cử, trẫm lập tức thăng chức và trọng dụng ngay.




Ông Đồng Hoà tâu:




- Mấy năm trước, ngu thần có lần làm Tổng tài hội thí (cũng gần như chủ khảo), thấy được một người có thể nói tài cực ưu trong đám sĩ tử đông đảo và chấm đậu tiến sĩ hạng thứ bảy. Hiện nay, người đó đang giữ một chức quan quá nhỏ, không thể tấu đạt lên bệ hạ, nên đã có lần dâng lên mấy bản điều trần, nhưng đều bị bọn đại thần yểm đì. Người đó họ Khang tên Hữu Vy, hiệu Tràng Tố, người huyện Nam Hải, tỉnh Quảng Đông. Y ở phương nam, có tầm mắt thánh nhân, thường tự cho mình bất phàm. Y còn có một người đệ tử, tên gọi Lương Khải Siêu. Học vấn của Siêu cung uyên thâm hết mức, nhất là về nghị luận thì có thể nói là hiểu biết sâu rộng về tình thế của thế giới hiện nay. Nếu bệ hạ có ý muốn canh tân để chỉnh đốn tại triều chính, phi hai người quyết không xong!




Quang Tự hoàng đế nghe xong, bỗng sáng mắt lên, vui vẻ bảo ông Đồng Hoà:




- Sư phó có những người tài như vậy, sao không nói ngay ra. Nếu trẫm biết sớm, trẫm đã thăng họ lên từ lâu rồi!




Ông Đồng Hoà lại nói:




- Nếu bệ hạ quyết ý canh tân, thì thực ra chưa lấy gì làm trễ. Bệ hạ cứ thong thả mà làm. Có điều bệ hạ nên giữ kín, chớ để lộ, khiến thái hậu nghi ngờ để luỵ cho kẻ khác.




Quang Tự hoàng đế nghe nói, gật đầu luôn mấy cái, chậm rãi nói:




- Ý kiến của sư phó hợp lý lắm! Để trẫm tuỳ cơ tiến hành vậy!




Quang Tự nói tới đây, từ từ đứng dậy bảo ông Đồng Hoà lui ra, còn mình thì thong thả bước về cung, nét mặt có vẻ tươi vui, đắc ý.




Lại nói Tây thái hậu hôm đó sau khi hạ chiếu đình chỉ ngày khánh chúc, trong lòng buồn bực chẳng vui. May thay lúc đó có Đôn thân vương ở bên cạnh, biết nỗi niềm của bà, liền tâu:




- Đến ngày lễ vạn thọ, xin Lão Phật gia nên vẫn đi vào Di Hoà viên, và bọn nô tài cũng vẫn xin được kéo tới đông đủ để dập đầu, mong thưởng thức ít chén rượu mừng thọ lấy phước!




Mấy lời nói của Đôn thân vương quả có một ma lực rõ rệt. Thực thế, chỉ mấy lời nói đó thôi đã làm cho lòng tức giận của Thái hậu nguôi hẳn, thái độ trở lại bình thường.




Tuy không thấy thái hậu hé môi cười nụ, nhưng người ta đã thấy bà thong thả gật đầu mấy cái liền, tỏ ý như lời nói trên rất hợp ý bà.




Tây thái hậu đứng dậy, đám cung nhân, đưa bà trở về hậu cung để thưởng thức cao Phúc Thọ.




Giữa lúc Tây thái hậu đang nằm trên giường hút thuốc phiện, bỗng Lý đại cô nương bước vào, ghé tai bà thì thào chẳng biết những gì mà chỉ thấy bà đùng đùng nổi trận lôi đình, quát bảo đi bắt ngay hai con yêu tinh lại để cho bà đích thân thẩm vấn.




Lý Liên Anh đứng hầu một bên, hiểu rõ ý Tây thái hậu vội chạy ra ngoài gọi tên tiểu thái giám sai đi gọi hai phi Cẩn, Trân tới cho Thái hậu truyền.




Chỉ một lát sau, người ta đã thấy Cấn và Trân phi theo chân tên tiểu thái giám vào hậu cung, toàn thân run lẩy bẩy, vội vàng quỳ mọp xuống đất hành lễ, rồi đứng sang một bên chờ lệnh.




Tây thái hậu trông thấy hai nàng, lửa giận bốc lên ngùn ngụt lớn tiếng quát tháo:




- Hai con hồ ly kia! Chúng bây đã làm được những gì tốt hay chỉ có mỗi một việc mê hoặc hoàng thượng? Đã thế chúng bay lại còn dám can dự vào triều chính nữa? Có lẽ nào triều đình của ta lại không còn gia pháp? Là phi tử mà chúng bay dám láo hỗn đến thế kia ư?




Nói tới đây, Tây thái hậu liên thanh quát tháo truyền lệnh mang gia pháp tới.




Quang Tự hoàng đế được tin Thái hậu tuyên triệu hai phi. sợ có chuyện bất trắc xảy ra, nên cũng hối hả chạy sang đúng lúc bà đang quát bảo đánh đập hai nàng.




Thật đáng thương cho Cẩn, Trân hai phi vừa bị hoàng hậu đánh cho một trận nên thân vết thương chưa lành nay lại bị Thái hậu hạ lệnh dùng hình cụ tra khảo nữa.




Quang Tự hoàng đế nhìn thấy tình hình như vậy, cũng chẳng kịp hành lễ nữa, vội quỳ xuống nói:




- Thánh mẫu trách phạt hai nàng vì sao vậy? Xin chỉ rõ cho họ hay, lúc đó hãy gia hình cũng chưa muộn mà!




Tây thái hậu mặt hầm hầm, quát trách luôn Quang Tự hoàng đế:




- Hai đứa cả gan lớn mật! Chỉ tại mi cưng chúng quá mà! Mi hãy hỏi chúng thì biết! Hỏi xem có phải chúng đã từng tư thông với ngoại thần? Tên Văn Đình Thức đã từng xưng hô với chúng như thế nào, mi có biết không?




Trân phi nghe nói vậy, vội dập đầu tâu:




- Văn Đinh Thức tuy là thày học cũ của tỳ nữ, nhưng đã lâu năm không được gặp mặt!




Tây thái hậu cười nhạt bảo:




- Lâu năm không gặp mặt Hừ! Chúng bay giúp hắn mua quan bán tước, bữa nào lại chả gặp mặt! Hừ! Không biết rồi đây chúng bay sẽ còn gây rối đến đâu?




Nói đoạn Tây thái hậu quát ầm lên như một con thú dữ vô môi:




- Dụng hình! Dụng hình!




Quang Tự hoàng đế vội lên tiếng cầu xin cho hai nàng:




- Cầu xin thánh mẫu minh xét! Việc tư thông với ngoại thần quyết không thể có! Chi mong thánh mẫu tha cho hai nàng!




Tây thái hậu thấy Quang Tự hoàng đế cố nài xin cho hai phi, càng lấy làm tức, quát mắng thêm:




- Mi còn giúp chúng để bịt mắt tao phải không? Không đánh hai con khốn kiếp đó không xong.




Quang Tự hoàng đế nghe Thái hậu quyết như vậy, trong lòng càng thêm bối rối, chỉ còn cách khẩn cẩu để may ra được mà thôi. Lý Liên Anh đứng cạnh cũng cố làm ra bộ thểu não thảm thê cầu xin Thái hậu giúp cho hoàng đế!




Tây thái hậu thấy hoàng đế và Liên Anh hết lời van nài, sa sầm nét mặt xuống, dằn mạnh từng tiếng bảo:




- Tụi bay cố tình hùa nhau, cố tình cầu xin! Ừ! Hình phạt có thể tha được chứ chuyện giáng cấp quyết không thể không làm!




Nói đoạn, bà quát giáng hai phi Cẩn, Trân xuống quý nhân giam lãnh cung nửa năm; kẻ nào còn cầu xin cho hai tội nhân, quyết lấy gia pháp ra trừng trị!




Đạo chỉ dụ vừa xuống, tức thì có vài tên thái giám chạy vội tới kéo hai phi Cẩn, Trân giam vào lãnh cung.




Quang Tự hoàng đế thấy việc đã hỏng rồi, có cầu xin cũng vô ích, đành gạt đôi dòng lệ đau xót cho người yêu rồi lảo đảo bước ra ngoài.




Trên đường về cung, Quang Tự hoàng đế phân vân trong lòng không hiểu vì sao lưỡng phi của mình lại bị tội như vậy.




Càng nghĩ tới người yêu, ngài càng thấy lòng mình uất ức, mặt khác, thấy tình cảnh mình thật, lạnh lẽo, trống trải, quạnh hiu. Ngài chỉ còn biết thở vắn than dài, thầm gạt lê trong những lúc đêm khuya canh vắng!




May hồi đó có tên nội giám Khấu Liên Tài hầu cận, thông cảm với nỗi niềm đau khổ của hoàng đế, cố lựa lời khuyên giải an ủi.




Quang Tự một mặt than thở, một mặt đem việc u cấm lưỡng phi ra kể lể hết mọi nỗi, cuối cùng ngài hậm hực nói:




- Trẫm vẫn chẳng hiểu được lưỡng phi đã phạm phải tội gì để khốn khổ như thế!




Nói đoạn, ngài dậm chân, nghiến răng một hồi lâu mà vẫn như chưa nguôi được nỗi uất ức, đau xót, Khấu Liên Tài thấu tình cảnh hoàng đế như vậy, bèn quỳ xuống tâu:




- Việc này chỉ do tên Lý Liên Anh gắp lửa bỏ tay người gây ra. Bệ hạ còn nhớ hôm ở Dưỡng tâm điện xảy chuyện tên hậu bổ đạo Từ Thành không? Từ Thành vốn là anh em kết nghĩa của Lý Liên Anh. Bệ hạ hôm đó đã vạch trần tất cả cái xấu xa bỉ ổi của hắn; đương nhiên, tên Anh phải mang giận trong thâm tâm, quyết thừa cơ báo phục cho đồng bọn.




Quang Tự hoàng đế nghe lời Tài, bỗng giật mình tỉnh ngộ.




Thế là từ đó, ý nghĩ thâu hồi quyền chính về tay mình càng trở nên cấp bách. Nhưng tại sao việc hoàng đế dẫn kiến bọn quan lại ngoại nhiệm lại can thiệp tới lưỡng phi Cẩn, Trân? Ắt chuyện phải có nguyên nhân nào đó chứ!




Câu chuyện xảy ra đúng thế: Nguyên lai Văn Đình Thức vốn là một triều thần thuộc Hàn Lâm viện trong triều đình nhà Thanh. Hàn Lâm viện là nơi nghèo mạt nhất, nếu không có cách chi vận động để thoát được ra ngoài mà xoay sở ắt là cùng cực suốt đời. Nhưng muốn bay bổng, điều kiện tối cần thiết phải là tiền.




Đã có tiền rồi lại còn phải khéo léo, hoạt bát, luồn lách mới hòng thoát ra nổi. Bởi thế, đương thời với thường tặng cho các ông quan Hàn lâm cái tước hiệu là "Cùng Hàn lâm" (quan hàn kiết).




Tình cảnh chung của đám quan Hàn đời Thanh là như thế, nhưng với ai kia, chứ với Văn Đình Thức thì khác!




Thức làm quan Hàn nhưng quả có cái tình sư đệ với hai phi Trân, Cẩn. Nhờ thế lực của hai cô học trò trong địa vị quý phi, Thức không khỏi xoay sở, đặc biệt nhất trong chuyện mua quan bán tước, hầu mong thoát khỏi cảnh kiết cú cùng bần để bước lên cõi muôn tía ngàn hồng, thơm tho êm ấm của cuộc đời.




Bè bạn, xóm giềng chung quanh thấy Thức là sư phó của quý phi lại chả nhường bước mà xin mời ông lên trước cho, để mong được đôi chữ "bình an".




Quang Tự hoàng đế cũng biết vậy nhưng nể mặt lưỡng vị quý phi Cẩn, Trân nên đành mắt mở mắt nhắm, ừ hữ bỏ qua cả.




Được đằng chân, lân đằng đầu, Thức ta thấy mình làm càn mà chẳng ai dám động tới, càng lấn tới!




Đã từ lâu Thức ta làm bậy không biết bao nhiêu rồi, lần này có việc xảy ra đáng để ý: đó là một chức Đạo đài hiện khuyết tại Thiểm Trung. Khổ nỗi là cái ghế trống này lại quá béo bở, do đó, không biết đến bao nhiêu anh đã chờ chực để nhảy vào.




Hồi đó, có một anh chàng họ Lý đã từng là đạo viện, tình nguyện xin đem sáu mươi vạn quan tiền cho Thức để nhờ Thức chạy chọt cho cái ghế nọ.




Thức thấy tiền, ngốt của, mừng lắm, bèn nhận lời, rồi chạy tới gõ cửa bộ Lại (bộ trông coi về việc thuyên chuyển quan lại thời xưa).




Nhưng Thức không ngờ đã có kẻ lẹ chân nhanh miệng hơn mình, ghế trống nọ đã bị choán mất rồi! Thức tức lắm lại tiếc tiền, bèn mở một cuộc điều tra dò tìm. Thì ra kẻ choán được ghế nọ chẳng phải ai xa lạ, mà chính là tên Từ Thành, anh em kết nghĩa của Lý Liên Anh.




Từ Thành xuất thân chỉ là một tên coi kho. Làm ăn xoay sở ít lâu, Thành có một cái vốn khá, ít ra cũng phải đến ba, bốn trăm vạn lạng bạc.




Giàu có rồi, Thành nghĩ tới chuyện quan lớn quan bé, nghĩa là có phú tất nhiên phải có quý nữa mới gọi là đủ… Thế là Thành tìm cách nhờ người đem một trăm vạn lạng bạc hiểu kính Lý Liên Anh, lại còn cho cả con trai lạy Lý Liên Anh làm can gia (như cha nuôi) nữa.




Lý Liên Anh thấy Từ Thành giàu có, liền kết giao với hắn. và tất nhiên, ít lâu sau thiên hạ đều phải ngạc nhiên không hiểu tại sao hai người xa lạ ấy bỗng một sớm một chiều trở thành đôi huynh đệ chí tình vô cùng mật thiết.




Lý Liên Anh bèn đem hết sức mình xoay sở cho người anh em một chức quan: đó là chức đạo hàm, chờ khi có chỗ khuyết thì lắp vào.




May thay, hồi đó, Thiểm Trung đạo khuyết một chỗ. Lý Liên Anh đợi mồi đã từ lâu; cho nên thấy cái ghế bở, Anh vội chạy tới gõ cửa bộ Lại và dặn dò ngay trước là phải dành cho người anh em của mình.




Nào ngờ đâu oan gia lại gặp oan gia, con tinh lại vớ phải yêu. Anh chạm trán với Thức. Văn Đình Thức tới chậm, biết Lý Liên Anh đã phỗng tay trên, tức lắm quyết không chịu lép vế. Thức nhíu đôi mày một lát, thế là kế đã ào ào lôi ra! Thức suy đi nghĩ lại cho chín rồi lẩm bẩm tự duyệt lại kế mình:




- Đối đầu với thằng Lý Liên Anh quả không thể địch nổi! Nhưng với thằng khốn Từ Thành thì có gì đáng ngại? Thế nào ta cũng phải cho hắn rời cái "Đạo đài", có thế mới hả được cái giận chứa chất trong lòng!




Chủ ý đã định, Văn Đình Thức lại cho đi dò la tin tức cẩn thận một lần nữa. Thức biết rõ rằng Thành chẳng những chỉ là một tên phu gạo xuất thân mà đến một chữ cũng không viết được nữa! Thức biết như vậy, lấy làm khoái chí, đặt xong ngay kế hoạch.




Kế hoạch như vầy: Thức cho người ngầm gọi một tên tiểu thái giám ra nhà mình, kể hết tình hình của đối phương cho nghe và bảo vào mật báo cho Trân phi để nhờ Trân phi giúp mình một tay ở trước mặt hoàng đế.




Trân phi thấy đây là chuyện của sư phó mình, không tiện chối từ, và nhất là không nghĩ tới hậu quả cho nên đã thừa dịp Đức Tông (Quang Tự hoàng đế) lâm hạnh, liền lựa lời gợi chuyện chính trị để mong đạt được nguyện vọng.




Trân phi hỏi Đức Tông:




- Hiện nay, bên ngoài có Cương lại nào khuyết không?




Quang Tự hoàng đế đáp:




- Không! Không thấy ai nói tới cả!




Trân phi lại nói:




- Thần thiếp có nghe nói viên Thiểm Trung đạo đài tân nhiệm vốn là người anh em kết nghĩa của Lý Liên Anh chẳng biết lấy một chữ nào. Không hiểu như thế hắn làm đạo đài ra làm sao?




Quang Tự hoàng đế bình nhật vốn ghét Lý Liên Anh nay nghe Trân phi nói vậy, chẳng hỏi han gì thêm, khỏi cần rõ cả xuất xứ đùng đùng nổi trận lôi đình, quát rầm lên:




- A! Thì ra cái thằng Liên Anh càng ngày càng lộng hành, không coi ai ra gì nữa! Quốc chính càng ngày càng suy cũng tại nó mà ra! Chẳng phải nói ai, ngay cả đến bọn ngự sử thị lang kia mà cũng nhiều kẻ chẳng biết một chữ gì. Có một lần giữa lúc đánh nhau với Nhật Bản, Ngự sử Thiết Lệnh dâng sớ xin Đàn Đạo Tế đi đánh Nhật thì Thị lang Vương Vĩnh Hoá lại xin chi cho phục chức Hoàng Thiên Bá về nguyên quán. Trẫm chi biết Đàn Đạo Tế lả người đời Tống, còn Hoàng Thiên Bá, trẫm chẳng rõ là ai! Trẫm bèn cho triệu hai tên này mới để hỏi xem, lúc đó trẫm mới hay chúng đều là những tên phu quét rác ngoài chợ. Chúng nghe bọn đọc sách có kể lại Đàn Đạo Tế là một người rất giỏi dùng binh, còn Hoàng Thiên Bá là một người có võ nghệ cao cường vốn là một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Thi Côn án, thế rồi chúng tra xét danh sách trong triều không có hai tên này, liền nghi cho là quan lại đã về hưu, tức thì dâng sớ để tiến cử. Bởi thế, cứ mỗi lần thấy những loại tấu chương đó, trẫm liền huỷ đi ngay, để tránh cái cười mai mỉa của bọn bày tôi người Hán. Cái lũ người xuẩn đột bỉ tiện ấy đâu có phải chỉ do mỗi một mình Lý Liên Anh tiến dẫn đâu! Theo lời nàng nói thì cái tên đạo đài tân nhiệm nào đó lại cũng chỉ là một loại giống hệt như loại người của Thiết Lệnh và Vương Vĩnh Hoá mà thôi! Cương lại (bọn quan lại ngoài biên cương) mà rặt là lũ giá áo túi cơm đó thì làm sao quốc gia chả hỏng việc, trăm họ chả bị hại lớn? Song tiếc rằng trẫm chưa biết được họ tên của thằng khỉ bịp bợm đó mới rầu chứ!




Trân phi ngồi bên cạnh đáp ngay:




- Thần thiếp nghe nói tên đạo viên đó là Từ Thành.




Quang Tự hoàng đế sẽ gật gật chiếc đầu, chậm rãi nói:




- A! Biết rồi! Biết hắn ta rồi! Hừ! Đừng hòng thoát khỏi tay ta! Để hắn dẫn cái thân tới đây, trẫm sẽ cho một cái tát vào mặt cho bõ ghét!




Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế cùng với hai phi Cẩn, Trân còn nhàn đàm một hồi nữa, lúc đó mới rủ nhau vào trướng vui vầy.

Hồi 159 Tây thái hậu đau bệnh máu




Qua ngày hôm sau, Lại bộ chiếu lệ đương nhiên, sau khi bổ Từ Thành làm đạo đài, phải dẫn vào triều để bệ kiến Hoàng thượng.




Hôm đó, Từ Thành ăn mặc chỉnh tề, thân đeo trào châu xủng xoảng bước vào, đứng đợi ở thiện điện (điện ở bên cạnh).




Lý Liên Anh đích thân cũng đi theo Từ Thành để chỉ vẽ cho Thành những lễ lạy khi gặp hoàng đế, và cách đối đáp lúc hoàng đế truyền hỏi.




Thành đương nhiên lúc này phải lưu tâm đến cực độ để nhớ cho thật kỹ. Không dám quên sót một chi tiết nhỏ nào.




Chẳng bao lâu, nội giám đưa thánh dụ ra, truyền lệnh cho Thiểm Trung đạo Từ Thành vào điện Dưỡng Tâm để kiến giá Thành nhân được chỉ, lật đật chạy tới điện Dưỡng Tâm.




Vừa bước vào trong, Thành nhìn lên điện thấy hai bên nội giám đứng thành hàng, chiếc rèm châu cuộn cao lên mài trên cao và sau đó, một người mặc y thường toàn màu vàng.




Từ Thành lúc này đứng quá xa, cho nên hình người mặc quần áo vàng, chỉ thấy lờ mờ không rõ. Nhưng Thành yên trí rằng đó chính là hoàng thượng của y.




Thành bỗng tự nhiên thấy lòng hoảng sợ, đôi chân run lên từng chập. Nhưng lúc này không phải là lúc lo lắng rụt rè nữa! Thế là Thành cắn răng quyết chữ liều, vội tiến lên vài bước để khấu kiến.




Thành làm Tam quy cửu khấu xong, liền nằm mọp trên mặt đất, chờ đợi thánh chỉ với đôi lời khuyến khích, để rồi sau đó tạ ơn mà lui ra.




Theo cựu chế của các triều đại trước thì chỉ có bấy nhiêu đó là xong! Lý Liên Anh đã chỉ dạy đúng như vậy cho Thành, nên Thành lấy làm yên tâm lắm, chỉ còn đợi mỗi một việc là lát nữa ra khỏi điện nhận đủ những lời chúc mừng của các bạn đồng liêu.




Giữa lúc Thành yên trí như thế và tỏ vẻ phây phây đắc ý, bỗng từ phía trên cao có tiếng vọng xuống:




- Ngươi là Từ Thành phải không?




Thành nghe tiếng hỏi, giật mình đánh thót một cái. Như một luồng điện vụt qua, hắn thầm nghĩ: Lý Liên Anh chưa từng bảo hắn chuyện bệ kiến rồi đối thoại bao giờ. Ấy thé mà lần này lại khác. Lỡ ra mà khi hoàng thượng hỏi, không đáp được thì thật hỏng bét! Nghĩ tới đây Thành đâm hoảng lớn, cảm thấy nguy là khác. Bởi thế, Thành quýnh quýnh mãi mới nói lên được có mỗi một tiếng "dạ"!




Từ phía trên, lại có tiếng buông xuống hỏi:




- Từ Thành! Trước đây ngươi làm nghề gì?




Thành đến lúc này lại càng hoảng! Ấp úng mãi, Thành mới mở được miệng, tâu lên:




- Nô tài bán đồ gỗ!




Quang Tự hoàng đế vừa nghe xong, quát rầm lên:




- Đã là thằng lái gỗ, tại sao ngươi không ngồi cưa cây đếm tiền mà lại đòi đi làm quan?




Thành càng hoàng nữa! Thành biết không thể nói dối, đành tâu thẳng ra:




- Thần thực không dám nói dối bệ hạ! Làm ăn buôn bán đâu có lời lãi bằng làm quan! Ấy chỉ vì thế mà thần muốn đi làm quan!




Quang Tự hoàng đế giận lắm, hỏi thêm:




- Người đi làm quan, muốn được lời lãi bao nhiêu?




Thành nằm phủ phục trên mặt đất, dập đầu xuống sàn nhà đến cốp một cái, mở miệng run run tâu:




- Nô tài chỉ cần lời được ba chục vạn quan tiền là đủ rồi!




Quang Tự hoàng đế quát hỏi thêm:




- Ngươi có biết tiền lương của một người đạo đài là bao nhiêu không?




Thành run bắn người lên, ấp úng tâu:




- Nô tài nghe nói làm quan mà nhờ vào lương thì chỉ có chết đói. Lúc làm quan, sẽ có bách tính đem đến phụng kính…




Nói đến đây, Thành thấy bọn nội giám ném cho hắn một tờ giấy và một cây bút. Rồi lại cũng tiếng quát hỏi khi nãy vọng xuống bảo hắn khai ngay thân thế.




Nghe lời phán này, Thành tự cảm thấy mắt hoa đầu váng, hồn phách như bay tận nơi đâu. Thành không dám khai rằng mình không biết chữ, tay cầm cây viết lông cán trúc, xem nặng đến ngàn cân không thể nào cất lên nổi, còn đầu thì vẫn úp sát xuống nền điện, không đám ngẩng lên.




Mấy tên nội giám đứng cạnh, lên tiếng giục. Thật đáng thương cho Thành, mồ hôi chảy xuống như tắm, quần áo ướt sũng như vừa mới ngoi từ dưới sông lên!




Thành ghì cây bút mãi một lúc lâu, mới vạch xong được có mỗi một nửa chữ Từ, nét xiêu bên này, nét vẹo bên kia, nhìn mãi chẳng giống chữ gì!




Bọn nội giám cầm nửa chữ Từ dâng lên. Người ta chỉ nghe tiếng cười nhạt và giọng nói mai mỉa của Quang Tự hoàng đế hắt mạnh vào mặt Thành:




- Ngay đến cả cái tên mình cũng không viết nổi, mà ngươi dám nghĩ tới chuyện làm quan để xoay tiền? Nếu cho ngươi đi làm quan, thì rồi đây ngươi cũng chỉ là một tên tham quan ô lại hại dân hại nước mà thôi! Cút ngay! Cút ngay đi cho rảnh mắt ta!




Bọn nội giám được lệnh, chạy lại nắm ngay lấy tóc Thành kéo xềnh xệch ra ngoài như kéo một con heo, miệng lẩm bẩm rủa:




- Thằng bỏ mẹ! Chạy lẹ đi, không thì khốn kiếp đó, con ơi!




Tử Thành thấy có người xách bổng mình lên, lại có những lời lẽ như trên cảm thấy nhẹ hắn đi, gượng đứng dậy, lùi ra sau vài bước, rồi ôm đầu vun vút chạy ra y như một con chuột bị mèo đuổi.




Phía ngoài cổng, bọn thái giám đồng đảng với Lý Liên Anh vội chạy tới săn tin. Thành cúi gầm mặt xuống, cặp mắt lạc hẳn đi, nói một cách vô cùng thiểu não:




- Trăm sự nhờ Lý tổng quản cả thôi! Cái đầu lâu này mà còn thực cũng là chuyện lạ!




Bọn thái giám vội hỏi cớ sự, Thành liền kể lể từ đầu đến cuối chuyện vào bệ kiến của minh cho cả bọn nghe.




Câu chuyện Từ Thành về sau trở thành một trò cười cho thiên hạ, nhưng khi đến tai Lý Liên Anh, thì hắn lấy làm lạ lắm! Hắn tự nhủ ngày thường nếu có bọn ngoại quan được vào bệ kiến, thì hoàng thượng cũng chỉ hỏi qua loa nảo nhân tình, nào phong tục, hoặc nếu có viên quan nào mới bổ thì ngài cũng chỉ ban vài lời khuyên nhủ cổ lệ, chứ tuyệt nhiên chẳng hỏi tới chuyện nọ chuyện kia. Ấy thế mà nay Từ Thành vào bệ kiến, lại bị ngài lục vấn về tài năng học thức, thì nhất định phải có kẻ phá hoại, chẳng còn gì phải nghi ngờ nữa.




Nghĩ vậy xong, Lý Liên Anh vội đi ngay đêm đó tới nha môn Bộ lại để dò tin. Tại nơi đậy, Anh được thêm nhiều chi tiết khác: số là Từ Thành đã bị gạch tên, và bị thay thế do một tên người họ Lý, mà người vận động cho Lý chẳng phải ai xa lạ, chính là Văn Đình Thức.




Lý Liên Anh nghe được tin trên, trong lòng đã rõ chín, mười phần: Hắn nghiến răng ken két rủa Văn Đình Thức:




- Thằng khốn kiếp Văn Đình Thức! Mi đừng có ỷ đệ tử của mi làm đến quý phi mà phách lác! Việc này thế nào mi lại chả theo cửa ngõ của lưỡng phi Trân, Cẩn mà chạy chọt?




Hắn bèn tức khắc tìm cô em gái tính kế. Anh bảo cô em gái bịa đại ra câu chuyện như sau để rỉ tai Tây thái hậu:




- Trân, Cẩn lưỡng phi can thiệp vào ngoại chính (việc chính trị bên ngoài). Vì sư phó của hai nàng là Văn Đình Thức chủ trương quyết liệt chống Nhật, cho nên mới bảo hai nàng nằm bên trong to nhỏ ngày đêm cám dỗ hoàng đế, khiến ngài đâm ra cao hứng, gọi ngay Lý Hồng Chương chuẩn bị chiến tranh, đến nỗi về sau táng sử nhục quốc! Trân, Cẩn hai phi hành động như thế đâu có tốt gì!




Đáng thương cho hai nàng phi Trân, Cẩn vô cớ bị đánh không còn biết kêu vào đâu. May nhờ có Quang Tự hoàng đế cầu xin mãi mới được tha chết, chỉ còn bị giam cầm nơi lãnh cung.




Thủ đoạn của Lý Liên Anh kể cũng gọi được là hiểm độc, lợi hại! Nhưng Anh có lẽ không biết rằng vì Trân, Cần hai phi bị tù đày cầm cố, khiến Quang Tự hoàng đế lủi thủi quạnh hiu, không thiết tiêu khiển nơi đâu, ngài đã dậm chân nghiến răng bao lần, giận thù hắn đến tận xương tuỷ.




Có một hôm Quang Tự hoàng đế vừa mới nói chuyện với Khấu Liên Tài về việc Trân, Cẩn hai phi, bỗng có một tên tiểu thái giám ba chân bốn căng chạy tới. Hắn muốn nói mà như bị đứt hơi, không nói được ra lời!




Hoàng đế thấy tình hình có vẻ quái lạ, biết thế nào cũng có chuyện khác thường xảy ra, bất giác cả kinh, trống ngực đập kêu thình thịch. Ngài gặng hỏi tên tiểu thái giám ba lần chỉ thấy hắn chỉ vào phía dưới một bức hoạ vẽ tay, cố cho ngài chú ý tới hai chữ "Thái hậu!".




Đức Tông hoàng đế biết rằng Thái hậu có chuyện gì xảy ra rồi bèn vội đứng dậy chạy gấp vào cung. Bước chân vào hậu cung, hoàng đế chỉ thấy Lý Liên Anh cùng bọn Lý cô nương, Giao Tố Quân, Thọ Xương công chúa đang đứng thành hàng phía trước giường của Thái hậu, còn bà thì đang tựa nghiêng bên cạnh giường, sắc mặt vàng bệch ra như sáp ong, miệng ngậm tăm chẳng nói chẳng rằng.




Hoàng đế bước lại gần thỉnh an. Thái hậu gật đầu vài cái, rồi vẫy tay bảo nhà vua lui, ngài chẳng hiểu ra sao, đành lủi thủi quay ra. Sau đó dò mãi tên nội giám trực nhật, ngài mới biết đêm qua, thái hậu bỗng nhiên kêu đau bụng, đau suốt mãi đến sáng sớm mà vẫn không dứt. Lý Liên Anh vội xin phép chạy đi gọi ngự y để chẩn trị, nhưng thái hậu quyết ý không cho. Về sau, đau quá không chịu nổi, Thái hậu lúc đó mới chịu.




Bắt mạch chẩn bệnh một lúc lâu, viên ngự y nhíu đôi lông mày vẻ ngại ngùng, lo lắng, ngập ngừng tâu:




- Bệnh này thực hết sức lạ! Hạ thần chẳng dám nói thẳng. Bởi vì rằng với tuổi của Thái hậu hiện nay, thì quyết không thể có cái bệnh này được!




Lý Liên Anh đứng một bên, nghe nói vậy, sợ viên ngự y nói toạc sự thật ra, vội quát báo:




- Thôi, khỏi phải nói nhiều! Bệnh của thái hậu, ai chả biết chỉ tại lao tâm lao lực gây ra khiến khí huyết suy nhược đó thôi! Ngươi làm ngự y há lại không biết bệnh như vậy sao?




Viên ngự y được lời Anh mớm cho, mừng quá, vội dạ, dạ lên mấy tiếng rồi nói tiếp:




- Quả đúng như lời Lý tổng quản đã nói!




Nói đoạn, viên ngự y đưa bút giấy ra, kê ngay một đơn thuốc bổ huyết, lạy tạ rồi bước ra ngoài.




Tên thái giám có việc phải đi, đo đó cũng không biết câu chuyện về sau ra sao. Mãi tới phiên trực sau, hắn mới biết Thái hậu đã hết đau bụng và lúc đó mới cho tên tiểu thái giám đi triệu hoàng đế tới.




Khổ cái tên tiểu thái giám chạy tới triệu lại không mở miệng nói được lời nào, khiến cho Quang Tự hoàng đế vò đầu bứt tóc mãi mà vẫn không đoán ra được chuyện gì!




Nhưng sau khi nghe tên thái giám kể lại đầu đuôi cặn kẽ, Quang Tự hoàng đế đã rõ được chín phần mười câu chuyện, nhất là hiểu được cái căn bệnh khó nói của Thái hậu, hoàng đế thở dài, quay về cung, kể hết mọi chuyện cho Khấu Liên Tài nghe.




Thì giờ thấm thoắt thoi đưa, chẳng mấy chốc đã tới tháng mười. Ngày lễ vạn thọ của thái hậu đã trước mắt. Mặc dầu đã có một tờ chiếu ban xuống cho thần dân đình chỉ cuộc lễ khánh chúc, nhưng thực ra, đó chỉ là một cái cớ để che mắt thiên hạ mà thôi!




Cái trò vải thưa che mắt thánh đó, vốn là trò quá quen với bọn quan trường. Nói rằng không làm lễ vạn thọ, chính lại là nói tổ chức ngày khánh chúc đó. Đối với quan trường xưa nay, ai lạ gì cái trò tiều ấy!




Thực thế, đến ngày vạn thọ, nào đèn nào đuốc rực rỡ huy hoàng, treo khắp kinh thành: Người ta liệu còn có nhớ đến tờ chiếu ngày nọ?




Ba ngày trước lễ vạn thọ, trước cũng như sau Di Hoà viên, bốn bề đều xinh tươi rực rỡ như hoa như gấm. Cách vườn hai mươi dặm chu vi, rồi Vạn Thọ sơn, rồi Côn Minh hồ, tất cả đều kết hoa, treo trướng buông màn, đủ ngũ sắc lóng la lóng lánh.




Đến ngày lễ vạn thọ, Lão Phật gia dậy thật sớm, mình mặc một bộ thọ phục thêu long phụng. Lý Liên Anh, Giao Tố Quân, cùng với các phúc tấn, vợ thân vương hầu hạ hai bên chuẩn bị sẵn sàng loan giá kéo thẳng tới vườn Di Hoà.




Chẳng mấy chốc, loan giá tới cửa vườn. Bọn thân vương như Đông vương, Cung vương, Khánh vương suất lãnh đủ các đại thần Hán, Mãn quỳ sẵn tại trước cửa từ trước để đón giá.




Loan giá tiến vào vườn. Bọn thân vương lại nhất loạt theo sau vào. Chiếc ngai báu đã đặt sẵn trên điện Bái Vân để thái hậu lên ngồi mà chịu lễ mừng thọ.




Nói đến điện đình rộng lớn nhất trong Di Hoà viên phải nói tới điện Bái Vân. Trên điện có treo một đôi câu đối. Tạm dịch:




"Muôn hốt tình sơn chầu Bắc đẩu




Cửu hoa tiên nhạc gảy nam huân"




Chỉ cần nghe qua cái giọng lưỡi trong câu đối, mọi người đều có thể biết đây là nơi nào và để làm gì rồi!




Có lẽ trong lúc loan giá của Thái hậu lên đường ra đi thì Quang Tự hoàng đế và hoàng hậu cũng sửa soạn xa giá tới Di Hoà viên mừng thọ. Tiếp sau đó, hai nàng Cẩn, Trân phi cũng kịp tới để bái thọ.




Nguyên lai hai phi Trân, Cẩn bị giam trong lãnh cung, chưa mãn hạn, nhưng Quang Tự hoàng đế thừa dịp vạn thọ, cầu xin Thái hậu gia ân đại xá cho hai nàng. Bởi thế, hai nàng mới được tới để dập đầu lạy chúc. Cuối cùng, đến bọn phúc tấn, cách cách lần lượt kéo tới và nhất nhất quỳ lạy dập đầu để mừng thọ.




Cuộc chúc thọ vừa xong, Tây thái hậu truyền dụ: Cho phép thân vương, đại thần, phúc tấn, cách cách đi chơi trong vườn một ngày, đồng thời cho ăn yến bày tại đại viện, vừa ăn vừa xem hát.




Thật là một ngày náo nhiệt chưa từng có! Đời sau có người đặt mấy bài Từ để ca tụng cảnh hoa lệ của Di Hoà viên. Tạm dịch:




Bóng rèm song biếc lạnh như băng.




Trăng sàng rọi bên rèm.




Xuân tươi vân còn đó!




Ao chum thuở nọ hỏi tìm đâu?




Khách (chim) lẻ kêu sầu.




Khách nào đuổi áng mây trôi?




Uyên ương sao nhác?




Bướm nỡ thờ ơ!




Hăm bốn cầu kia, địch chửa nghe.




Nhi nữ sau buồn thương.




Tỉnh chửa? Sao chửa tinh?




Nhiều ít giận tang thương




Việc qua buồn biết mấy?




Triều trước phồn hoa thấy nữa đâu?




Mây buồn tan tác bao la




Trời xa, nhìn càng dương




Hoa lệ thăm thẳm viện đình




Hoa đào trong ngõ xóm




Hoa sen còn nở trên ao




Một tràng địch Khương bi thiết!




Thuở trước phong lưu




Càng nói càng đau cảnh đoạn trường




Sân khấu rạp hát trong Di Hoà viên có đến năm tầng tù thấp lên cao. Tầng thứ nhì dùng để diễn những tuồng thần kỳ quỷ quái!




Bởi thế hai tầng được bố trí gần giống như những nơi thần từ phật tự.




Tầng thứ nhất giống như các loại sân khấu tại rạp hát thông thường, có vẻ bảnh bao hơn một chút thế thôi. Tầng thứ ba phía trên chuyên dùng để sửa soạn màn cảnh. Trên tầng thứ tư có một ít bàn ghế, gương kính, bố trí đủ mọi đồ cần thiết cho đào kép trang điểm chuẩn bị lên sân khấu đóng tuồng. Còn tầng thứ năm, đó là tầng dùng để cúng kiếng thần Phật.




Hai bên sân khấu có hai dãy phòng, dùng làm chỗ ngồi cho bọn vương công đại thần được ân hưởng cho xem hát.




Đối diện sân khấu là một căn nhà ba gian cao hơn một trượng, đó là nơi dành riêng cho Hiếu Khâm hoàng hậu ngồi xem hát.




Bên cạnh có hai căn phòng để nghỉ ngơi, đặt một cái giường dài. Mỗi lần thái hậu tới xem hát, tuỳ ý muốn ngồi thì ngồi, muốn nằm thì nằm, thực vô cùng thoải mái!




Ngày vạn thọ, những đào kép nổi danh khắp vùng Bắc Kinh, Thiên Tân như Đàm Khiếu Thiên, Uông Quế Phân v.v… đều được gọi vào.




Trời tối, khắp vườn Di Hoà đèn đuốc sáng choang chẳng khác chi lúc ban ngày. Tây thái hậu và hoàng đế (Quang Tự) cùng ngồi trên đại viện để xem hát. Hai bên ngồi đông đủ nào thân vương, nào phúc tấn, nào cách cách, nào nội giám thân tín…

Hồi 160 Quang Tự thi hành tân chính




Chỉ chốc lát sau, một tên thái giám tay cầm cuốn sổ trình lên, xin Hoàng thái hậu và hoàng thượng chọn tuồng.




Thuận tay, Tây thái hậu chấm vở Thiên lôi báo, còn hoàng đế chọn vở Tiêu Dao tân.




Tên thái giám lãnh chỉ lui xuống, truyền cho bọn đào kép bắt đầu diễn. Thiên lôi báo vốn là một kiệt tác của Tiểu Khiếu Thiên.




Hắn cất tiếng hát vừa mê ly vừa lảnh lót nghe đến mềm cả người. Nhưng khi Thiên hát tới chỗ sét đánh, Tây thái hậu quay mặt nhìn hoàng đế cười nhạt.




Quang Tự hoàng đế biết Tây thái hậu có ý chế giễu mai mỉa mình, cúi đầu lặng thinh. Lý Liên Anh đứng ở sau lưng Thái hậu cũng nhìn ngài mà nhếch mép cười.




Quang Tự hoàng đế đến lúc này, trong lòng đã lấy làm giận lắm. Kịp đến vở Tiêu Dao tân lên sân khấu. Các Tiên đóng vai Hán Hiếu đế, biểu diễn đúng hệt một ông vua cô thế nhu nhược vô cùng thê thảm trong tình trạng bị lăng nhục, nhục nhã đến rơi lệ.




Cung vương ngồi phía dưới lấy làm khoái, nhịn không nổi lớn tiếng khen tuyệt. Khánh vương cười bảo Cung vương:




- Trong cung cấm la hét om sòm, không sợ Lão Phật gia bắt tội sao?




Cung vương nghiêm nét mặt nói:




- Cựu chế của các đấng tiên vương ta là trong cung cấm không được chèo hát mà.




Nói đoạn, Cung vương liếc mắt nhìn Thái hậu. Nhưng Tây thái hậu tảng lờ đi như không nghe thấy gì, quay đầu lại trò chuyện với Lý Liên Anh.




Quang Tự hoàng đế bất giác mở sáng đôi mắt, cất cao cặp lông mày lên như đôi cánh nhạn, kêu gọi bọn nội giám liên tiếp khen thưởng bọn đào kép.




Đến lúc này, Tây thái hậu mới biết rõ hoàng đế tự chọn vở Tiêu Dao tân là có ý phản đối mình, vì thế lấy làm bực tức. Song bà thấy có Cung vương ngồi gần, chẳng dám phát tác chứ nếu không bà đã hạ lệnh đình diễn rồi!




Nguyên do chỉ tại Cung vương tính rất nghiêm khắc, dữ tợn. Khi vương ở nơi quân cơ, Tây thái hậu vẫn có ý sợ hãi vương. Hồi Hiếu Trinh hoàng hậu còn tại thế, thường cùng Tây thái hậu, Hoàng đế, và bọn Cung vương đi chơi nơi Tam Hải, Tây thái hậu nhìn thấy các đình đài, lầu gác tại nơi đây đổ nát rã rời bèn giơ tay chỉ bảo:




- Bọn ta nên sửa chữa nơi này mới phải!




Cung vương nghe đoạn, đáp lời chỉ bằng một tiếng gừ trong cổ, nhưng tỏ vẻ trang trọng.




Hiếu Trinh hoàng hậu nói:




- Sửa thì nên sửa lắm! Nhưng lúc này bọn ta làm gì có tiền để mà làm những việc không cần gấp đó?




Tây thái hậu nghe thấy, lặng thinh, không nói gì thêm nữa.




Đây là việc cũ nhắc lại một tí thôi! Lại nói, tuồng đêm đó diễn chưa xong, nhưng hoàng đế vì trong lòng mất hứng, xin phép Thái hậu cùng hai phi Trân, Cẩn về cung sớm.




Mặt khác, Tây thái hậu đêm đó cũng thấy hoàng thượng chọn vở Tiêu Dao tân là có ý chế giễu mai mỉa mình, trong lòng thực chẳng vui thú gì, cho nên chỉ mong hoàng thượng về sớm chừng nào hay chừng nấy.




Chờ cho Quang Tự hoàng đế đi rồi, Tây thái hậu cũng bảo bọn Thân vương về nốt, chỉ để bọn các cô cách cách vắn ở lại xem hát cho đến lúc mãn. Sau đó, bà cùng Lý Liên Anh sang chơi bên Trí Tuệ hải.




Trí Tuệ hải vốn là một thuỷ cảnh đẹp vào bậc nhất trong Di Hoà viên. Phong cảnh đại khái giống như Doanh đài nhưng cách kiến tạo xem ra có phần công phu và khéo léo hơn. Bốn chung quanh hải (bể) đều có cẩn châu ngọc và đá quý, lại treo cả những kiểu đèn ngũ sắc lộng lẫy của Tây dương. Ở giữa bể cột một chiếc thuyền rồng.




Thân thuyền dài một trượng tám thước, cao một trượng, vẽ vời đủ ngũ sắc. Phía trong thuyền rồng, có đủ loại bàn ghế, giường nằm, giao ỷ. Bất luận nằm hay ngồi, chỗ nào người ta cũng đều thấy êm ái thoải mái cả. Trên mũi thuyền, bày đủ nào là cờ quạt, nào là tiết việt. Trong khoang đuôi, có một căn phòng nhỏ luôn luôn được hai tên tiểu thái giám trông coi và chầu chực cẩn thận để sẵn sàng dâng ngự điểm (bữa ăn của vua và hoàng hậu) cho đúng lúc.




Đối diện với thuyền rồng, trên đất liền, còn có một toà nguyệt cung. Trong cung, tiếng trống, tiếng tiêu suốt ngày đêm không dứt. Mỗi năm cứ đến rằm trung thu, thì quả phẩm tươi ngon ướp lạnh được bày biện la liệt bên trong.




Tây thái hậu cùng với hoàng thượng đích thân tế trăng, sau đó ân thưởng cho các thân vương, đại thần được lên thuyền rồng dạo chơi đây đó, chẳng khác gì như một ngày đại hội thâu đêm suốt ngày, cửa thành rộng mở.




Đến nửa đêm, Tây thái hậu lại truyền lệnh ban yến, ăn uống vui vẻ. Suốt mãi tới lúc bình minh, mặt trời đã lên cao, vua tôi mới mãn vui giải tán ra về. Đây lại còn là việc sau.




Sau khi qua chơi Trí Tuệ hải một lượt. Tây thái hậu và Lý Liên Anh lại quay sang Bảo Liên hàng. Bảo Liên hàng là một cái thuyền ụ, dùng đá và ngọc đẽo thành, hết sức tinh xảo. Vì thế, nên còn gọi là thạch hàng (cái thuyền đá). Phía bên trong thạch hàng, có chế hai chiếc khí thuyền (thuyền chạy hơi nước). Khí thuyền hồi đó không hoàn toàn giống như tàu thuỷ ngày nay. Nó chỉ có mỗi một việc là có thể chạy đi chạy lại được mà thôi. Ấy thế mà đối với thời đó đã coi như tài khéo tuyệt luân, cướp hết cái công của tạo hoá rồi. Bên trong khí thuyền cũng có đèn điện, chiếu sáng mãi ra ngoài vườn.




Khi thuyền chạy đèn điện sáng choang, lốm đốm như sao. Tây thái hậu một mình cưới thuyền đi chơi.




Vì chiếc thuyền chạy đã xa điện Nhân Thọ, đối diện với núi Vạn Thọ, phong cảnh hết sức xinh đẹp. Tây thái hậu do đó rất thích tới đây du ngoạn.




Đầu đêm hôm đó, Tây thái hậu cùng với Lý Liên Anh đi du ngoạn một hồi, vẫn thấy thú vui chưa thoả, tiện đường tới thăm Đồng Âm thâm xứ.




Đồng Âm thâm xứ cũng là một địa điểm nằm trong vườn Di Hoà. Đây là một địa điểm bí mật, phía trong cất một căn nhà ba gian. Chung quanh căn nhà đều có trồng những cây ngô đồng đã rất lớn. Bên cạnh là một ngọn suối trong. Cứ đến đêm khuya, tứ bề vắng lặng, người ta nghe rõ tiếng suối reo róc rách, tí tách như tiếng đàn cầm, tạo thành một điệu nhạc vô cùng êm ái mê ly. Dọc dài theo nguồn nước trong, biết bao lan can chạm ngọc mài đá, thanh nhã, trông như một bức hoạ. Căn nhà ba gian xây cất toàn bằng cột chạm tường ve mười phần tinh xảo. Bên trong giường ghế, màn trướng thảy đều đầy đủ. Rồi đến những chậu rửa mặt, những gương trang điểm, không thiếu sót thứ gì.




Tính tình của Tây thái hậu vốn ham thích điểm trang. Hễ tới chỗ nào tất nhiên bọn cung nữ phải lo sửa sang lại mái tóc, dồi phấn thoa son lại cho bà.




Tuổi bà tuy đã sáu chục, nhưng mặt bà vẫn không chịu rời phấn sáp. Bởi thế nhìn bà chỉ như một người đàn bà quá ba mươi xuân xanh, như còn nhiều hứa hẹn lắm! Với cái bộ mặt còn đầy tình của bà, cái tấm thân còn óng chuốt đẫy đà của bà, mấy ai dám bảo bà đã năm, sáu chục cái xuân?




Ấy cũng vì thế, anh bác sĩ y khoa người Mỹ tên là Lập Đặc thường hay khoe với thiên hạ rằng bà là một đệ nhất mỹ nhân của thế giới. Hãy tạm gác chuyện này.




Lại nói Tây thái hậu cùng với Lý Liên Anh từ hôm đó ở lại Đồng Âm thâm xứ du ngoạn thâu đêm suốt sáng một cách vô cùng bí mật. Bọn cung nữ và thái giám trong Di Hoà viên thường nghe những tiếng trai gái cười cợt đùa bỡn nhau trong đó vọng ra.




Thế là từ đó, Tây thái hậu thức ngủ nhất nhất đều ở trong Di Hoà viên, không còn thấy can dự tí gì vào việc triều chính nữa, mặc kệ cho Đức Tông muốn làm sao thì làm, đúng y như lời ông Đồng Hoà đã, nói là "vui rồi thì quên hết!".




Từ hôm đi xem hát về, Quang Tự hoàng đế (tức Đức Tông) giận tức đến cùng độ. Lại thêm Trân, Cẩn hai phi kể lể lại tình cảnh lúc bị đánh, bị tù, ngài càng thấy lòng tức giận tăng thêm. Mặc dù được lưỡng, phi khuyên giải an ủi, nhà vua vẫn cứ buồn bã chẳng thể vui lên được.




Suốt đêm hôm đó Quang Tự hoàng đế không chợp mắt được phút nào! Sáng mai, ngài thị trào xong quay về cung, liền cho lệnh mời ngay ông Đồng Hoà vào thương nghị kế sách "Cải cách triều chính".




Ông Đồng Hoà tâu:




- Đối với tình hình hiện tại, mọi cựu chế của Tiên hoàng không còn thích dụng nữa. Ngu thần thi lại bất tài không tìm ra lượng pháp, khiến tất lại hoá xấu, hay lại hoá dở. Bởi thế, chỉ còn một cách là nhường lại cho bọn hậu bối tài cán đủ khả năng, cố hết tâm sức kiến công lập nghiệp là hơn!




Quang Tự hoàng đế khảng khái nói:




- Nếu sư phó không chịu cáng đáng trọng trách đó Trẫm sẽ quyết ý trọng dụng bọn người mới Khang Hữu Vy vậy? Vậy xin nhờ sư phó thay trẫm truyền dụ ra ngoài, gọi Khang Hữu Vy ngày mai vào bệ kiến.




Ông Đồng Hoà lĩnh chỉ lui ra, tới báo cho Khang Hữu Vy.




Khang Hữu Vy vốn là người có chí lớn. Trước năm Giáp Ngọ, Khang đã có lần dâng thư điều trần chính kiến của mình: Thế nào là khoa học… Làm sao để chấn hưng nền giáo dục v.v…




Bọn đại thần người Mãn cho rằng Khang khùng, chỉ nói bậy nói bạ, đem ỉm luôn bản điều trần của Khang, quyết không trình lên hoàng đế. Có điều rắc rối là năm đó ông Đồng Hoà làm chủ khảo trường thi, có đọc văn của Khang, thấy Khang là một tay kỳ tài, liền cho đậu tiến sĩ. Từ đó, giữa ông và Khang tự nhiên có cái tình thày trò.




Bởi thế, ông Đồng Hoà mới đem hết sức mình để tiến cử lên Đức Tông.




Quang Tự hoàng đế đã có ý muốn triệu Khang Hữu Vy để chính mình được hỏi những điều cần thiết. Song triều đình còn có luật pháp, không tiện vượt qua. Ngài đành phải hạ dụ cho Khang tạm thời hãy nhận chức Học tập hành tẩu tại Tổng lý nha môn, chờ ít lâu sẽ thăng lên làm Hàn lâm viện thị giám.




Chính lúc này là lúc ngài có thể triệu kiến một cách dễ dàng, không còn phải e ngại dư luận.




Đến hôm được dụ triệu kiến, Khang Hữu Vy đầu đội mũ long linh rực rỡ, đi thẳng vào Tiên điện để kiến giá.




Quang Tự hoàng đế đợi Khang hành lễ xong, mới cất tiếng hỏi về chính sách "Tự cường" của Khang.




Khang Hữu Vy liền trần thuật luôn ba kế sách lớn như sau:




1) Tập hợp hết thảy người tài lại để mưu việc biến chính.




2) Chọn lựa Tây sách (kế sách của Tây phương) để định rõ quốc sách.




3) Nên nghe theo và cho phép bọn quan cai trị ngoài biên cương tự biến chính.




Ngoài ba điểm chính này, Khang còn xin định rõ hiến pháp, bỏ hẳn khoa cử, mưu việc chấn hưng giáo dục, mở mang chế độ, sai các thân vương đi du lịch các nước để dò xét những lương pháp của các nước Tây phương, phiên dịch các sách Âu Tây để đào tạo tri thức, phát hành giấy bạc và thiết lập ngân hàng để cho kinh tế được lưu thông, tổ chức các trường văn nghệ cũng như võ bị ở các tỉnh các phủ để luyện tập dân binh, mong việc phòng vệ được chỉnh đốn và cường mạnh.




Khang Hữu Vy trình việc nào ra việc đó, tất cả đều thao thao bất tuyệt. Quang Tự hoàng đế nghe xong, bất giác cả mừng, hạ dụ cho Khang lui ra ngoài, đồng thời sai bảo tiến một số nhân tài tân chính để tiện việc thực hành "Biến pháp".




Lý Hồng Chương sau khi ký mật ước với nước Nga, bèn lên đường du lịch các nước, lúc này cũng vừa về tới Trung Quốc.




Quang Tự hoàng đế ghét Chương về chuyện bất lực trong cuộc chiến năm Giáp Ngọ (chiến tranh Trung - Nhật), nên cho Chương rút lui ra khỏi quân cơ về nhà nghỉ.




Nhưng sau Tổng đốc Lưỡng Quảng bị khuyết, Lý Hồng Chương lại được điều ra đó nhận chức.




Cung thân vương Dịch Hân tuy cương trực nhưng từ sau cuộc chiến bại Giáp Ngọ, đối với chính trị cũng không còn nghiêm khắc như trước. Không ngờ, già lão chóng tàn, Cung vương bỗng nhuốm bệnh, nằm liệt giường, có cơ nguy kịch.




Tin chẳng lành truyền tới tai Thái hậu và hoàng thượng. Tất cả mọi người đều xúc động cảm thương. Quang Tự hoàng đế lập tức sai nội vụ phủ cấp cho gia đình vương một vạn đồng bạc để làm đám táng, và đặt thuỷ hiệu là Trung vương.




Sau khi triệu kiến Khang Hữu Vy, Quang Tự hoàng đế một lòng tha thiết thực hiện tân chánh. Lại còn có bọn thị lang Từ Trí Tĩnh, thị độc học sĩ Từ Nhân Kính, Từ Nhân Trú, ngự sử Dương Thâm Tú dâng thư lên xin quyết định ngay Quốc thị (tức là chế độ, luật pháp, tổ chức cần thiết của một quốc gia).




Thế là đến đây, chủ ý của Quang Tự hoàng đế về biến chính càng thêm kiên quyết và nhất định lắm rồi. Do đó, đúng vào ngày hai mươi bảy tháng tư, ngài bèn hạ một đạo chiếu thư xuống như sau:




"Mấy năm gần đây, chiến sự xảy ra lung tung, mối lo bên ngoài càng thêm đáng ngại. Trẫm rất lấy làm lo lắng. Do đó, thần công trong ngoài nhiều người chủ trương biến pháp tự cường, quyết ý trước hết, đào thải hết bọn tham nhũng, sau đó thiết lập đại tiểu bọc đường, sửa đổi chế độ võ khoa v.v…




Họ đã suy xét cẩn thận, và cương quyết thi hành để thí nghiệm, chứ không như bọn thần công ngày trước chỉ khư khư bảo thủ cựu chế, bài trừ tân pháp, mồm mép om xòm, không hướng tới một cái gì; do đó mới xảy ra vụ tranh chấp về chế độ giữa cũ và mới.




Song, thời thế ngày nay đã khác: trong thì chính trị không sửa sang, ngoài thì cọp dòm ưng ngó, chỉ chờ có dịp là tiến tới nếu không có mưu kế tự cường, ta biết lấy gì mà lập quốc?




Mà cái đạo tự cường thì trước hết phải lấy cường dân phú quốc làm đầu.




Ôi! Học trò đã không có thày giỏi thì làm sao cho có thực học? Bọn lính nhác không được tập luyện thì biết lấy gì để chống giặc. Nếu cứ cổ hủ mãi, thì nước làm sao mà mạnh được dân làm sao mà giàu được? Trong trường hợp ấy, cả một giang sơn gấm vóc này rốt cuộc chỉ để cho bọn cường lân (các nước láng giềng giàu mạnh) gậm nhấm dần đến hết như tằm ăn dâu mà thôi.




Trẫm đã thăm hỏi hai ba lần: ai cũng đều cho rằng nếu quốc thị không định, thì hiệu lệnh chẳng thể thi hành được, những điều lưu lệ, sau đó ắt gây ra phận tranh, khiến quốc chính không còn cách gì bồi bổ nữa.




Xét lại lịch triều Trung Quốc, trẫm thấy chế độ của liệt quốc mỗi quốc gia đều có cái hay riêng của mình, chứ không giống ai nhau, luôn luôn cũ mới đổi thay nhau. Điều dĩ nhiên từ xa xưa là đã chọn tân chế thì đương nhiên cựu chế không thể tồn tại. Chọn cái hay để mà theo thì đó là cái đạo lớn của nước vậy.




Kể từ nay về sau, thần công trong ngoài lớn nhỏ, vương công, sĩ thứ, tất cả đều phải gắng sức hướng lên, nổi hăng mà mưu đồ sự giàu mạnh, học tập lấy lễ nghĩa của thành hiền, chọn những điều của Tây học thích hợp với chế độ để bổ túc những chỗ thiếu sót, chủ đích chỉ mong cầu tinh tiến để đợi lúc sử dụng.




Kinh sư là nơi thủ đô của toàn quốc, học đường phải nên sáng lập. Nếu các bậc thần công trong ngoài từ vương công trở xuống cho đến các nhân viên, các ty, các bộ, các vị thế chức Bát Kỳ cung như đám bậu duệ của văn vô đình thần, muốn xin đi học, thì sẽ được nhập học, giáo dục thành nhân tài đế vì nước xuất lực, giúp đời gỡ rối.




Hỡi các thần công! Các ngươi không được tự ý thủ cựu mà viện dân này nọ, làm chậm chế việc thi bành, khiến nỗi trên thì phụ lòng triều đình thiết tha với các giới, dưới thì tự mình đã lẫn lại kéo thêm người lầm với mình. Và như thế hậu hoạ không còn gì to lớn hơn nữa! Nay đặc dụ cho thán công nội ngoại toàn thể đều biệt.




Khâm thử".




Đạo thượng dụ này vừa ban xuống, chỉ trong nháy mắt, tin tức đã đồn dậy trong ngoài. Khang Hữu Vy ngay lúc đó cũng được vời vào cung để hỏi ý kiến. Nhất thời được minh quân chiếu cố tới mình, Khang quả là người mà toàn triều văn võ bá quan không ai dám sánh.




Khang Hữu Vy bảo tiến thêm mấy nhân vật mới nữa giúp đỡ trong việc biện lý tân chính.




Đó là Từ Trí Tĩnh và hai người con Từ Nhân Trú và Từ Nhân Kinh. Khang lại bảo tiến người em ruột là Khang Quảng Nhân, người đệ tử là Lương Khải Siêu.




Lương Khải Siêu là người huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, vốn là một thư sinh. Do sự bảo tiến của thày, Lương được hưởng hàm lục phẩm, phụ trách việc dịch sách trong Dịch thư cục.




Mặt khác, Tuần phủ Hồ Nam là Trần Bảo Hàm cũng bảo tiến Lưu Quang Đệ. Dương Nhuệ. Thị lang Tử Kính Tĩnh cũng bảo tiến Đàm Tự Hồng. Hộ bộ tả thị lang Trương Âm Hoàn lại bảo tiến Vương Tích Phồn, Ngự sử Dương Thâm Tú bảo tiến Đinh Duy Lỗ.




Tất cả những nhân vật được bảo tiến trên đều là những người học thức uyên bác, có thể coi như là những nhân tài tuyệt luân được. Ngoài ra, ta còn thấy có nhóm Trương Chi Động cũng góp nhiều công vào việc biến chính, nhất là trong chương trình cải cách khoa cử.




Vương Phượng Văn xin thiết lập phép chấm thi. Tiêu Văn Cát xin chỉnh đốn nghề tơ, trà để phục hưng thực nghiệp. Ngự sử Tăng Tôn Ngạn tâu xin mở mang nông vụ. Vương Tích Phồn xin tổ chức quản trị các hội buôn. Lý Đoan Phân xin chỉnh đốn lại luật lệ. Viên Vĩnh thì tâu xin giải quyết sinh kế cho Bát Kỳ (tổ chức quân đội của riêng nhà Thanh). Ngự sử Thuỷ Tân người Mãn, dốt đặc cán mai, đến một chữ cũng không biết thế mà cũng dám ghi tên lên đầu danh sách, xin quản trị các báo quân để lo việc thông tin.




Quang Tự hoàng đế thấy sớ tấu dâng vào như bươm bướm, cái nào cũng có ích cho Tân chính, đều nhận hết, đồng thời còn khen thưởng những người dâng tâu kế sách. Ấy cũng vì vậy cho nên có những anh chàng người Mãn vớ vẩn dốt nát, vét ba ngày không ra được nửa chữ, cũng vội vàng dâng sớ trình bày chính kiến, khiến từ đó, tấu sớ chất thành đống như trái núi, tạp nham bừa bãi, trở nên bao chuyện khôi hài không bút nào tả xiết!




Lại cũng còn có kẻ tâu xin hoàng đế "trở lại" đạo Gia tô. Rồi cũng lại có cả những bản tấu chương xin học tập theo sách Tây, chữ Tây (chữ Anh, Pháp, Đức v.v…).




Quang Tự hoàng đế xem qua các loại sớ này chỉ mỉm cười, coi như được một dịp nghe chơi những chuyện vui. Song đối với các bản điều trần thực tế về tân chính của chư thần, Quang Tự hoàng đế đều nhất nhất dung nạp, không loại bỏ cái nào. Ấy cũng vì vậy mà một tai hoạ lớn đã ra, hậu quả vô cùng tai hại.

Hồi 161 Mật chiếu trừ cựu đảng




Thấy Khang Hữu Vy được Quang Tự hoàng đế tin dùng, giao cho việc thực hiện tân chính, bọn cựu thần như Hứa Ứng Quỳ, Từ Hội Phong, Hoài Tháp Bố, Cương Nghị căm tức vô cùng.




Hằng ngày bọn quan cũ thường tìm những chỗ sai sót của bọn mới để khai thác, rồi tìm cách ton hót, gièm chê họ trước mặt Tây thái hậu.




Có điều là hồi đó, sau khi sống chung một cách vô cùng bí mật với Lý Liên Anh trong Di Hoà viên, Tây thái hậu ném hết mọi việc triều chính ra sau lưng, không thèm để ý tới một việc nhỏ nào nữa, ngoại trừ một vài việc muôn phần khẩn cấp. Cũng có đôi lúc, hoàng đế gặp phải đôi việc cần hỏi ý kiến thì bà chỉ kêu Lý Liên Anh truyền lời ra cho ngài mà thôi. Hoàng đế và Thái hậu vốn có tình mẫu tử, thế mà còn không được gặp, thử hỏi bọn thần tử làm sao mà gặp được?




Khi Hiếu Trinh hoàng hậu còn tại thế, Vinh Lộc tuy đã bị cách chức nhưng lúc này đã được phục chức và giữ việc Bộ quân thống lãnh. Lộc thấy ghế tổng đốc Trực Lệ khuyết, liền xin Tây thái hậu cho mình sung vào.




Rồi nhân dịp Quang Tự hoàng đế vào vấn an trong ngày sóc, vọng (sóc: ngày mồng một; vọng: ngày rằm), Tây thái hậu đích thân triệu Vinh Lộc vào bệ kiến để bổ nhiệm chức tổng đốc Trực Lệ.




Lại nói bọn Hứa Ứng Quỳ, Hoài Tháp Bố, hằng ngày rình rập nhóm tân chính xem có gì sơ hở không để kỳ trung thủ lợi.




Thật là may cho bọn họ, dịp đó đã tới.




Số là một hôm, chủ sự bộ Lê Vương Chiêu dâng lên một tờ sớ, sơ hở thế nào không biết, khiến Hoài Tháp Bố nhìn thấy trong quân cơ xứ, vội đánh cắp dấu vào ống tay áo, tính đem sang trình Tây thái hậu. Không ngờ việc gian xảo của Bố bị ngự sử Dương Thâm Tú biết được, vội chạy vào cung tâu ngay cho Quang Tự hoàng đế hay.




Quang Tự hoàng đế cả giận, lập tức hạ lệnh truy cứu tờ sớ của Vương Chiêu. Bố bất đắc dĩ phải trình lên. Quang Tự hoàng đế tức thì lột chức Hoài Tháp Bố, định cho tội danh không dùng vĩnh viễn.




Nội dung tờ sớ của Vương Chiêu khuyên Quang Tự hoàng đế hớt tóc, đổi y phục. Hoàng đế xem xong, mỉm cười, và ban cho Vương Chiêu mũ hàng tam phẩm.




Bọn thần công (quan lại) Mãn cũng như Hán, trong cũng như ngoài, tất cả nghe nói hoàng đế dám dung nạp cả đề nghị nhà vua hớt bím tóc, điều mà triều Thanh vô cùng kiêng cữ, liền khùng lên như một đàn thú dữ. Họ không hiểu tại sao hoàng đế lại có thể nghe theo những đề nghị kỳ dị như vậy.




Thế là cả bọn cựu thần, cựu đảng họp nhau lại, hết tốp này đến nhóm nọ, truyền đi mãi tới tai thái hậu.




Tây thái hậu vừa nghe mấy tiếng "hớt tóc đổi y phục", bỗng thất kinh, đùng đùng nổi trận lôi đình, gầm lên:




- Thằng bé hỗn láo thật! Cơ nghiệp của tổ tông có lẽ hắn muốn phá cho bằng hết đi chăng?




Lời nói vừa ra khỏi miệng Tây thái hậu, thì đã có bọn thủ cựu như Hứa Ứng Quỳ, Cương Nghị chạy vào tâu hót tới tấp.




Bọn này tố cáo nào là hoàng đế lầm lẫn, nào là nghe lời khùng dại của Khang Hữu Vy, cải biến tất cả chế độ tốt đẹp của các đấng tiên hoàng, không còn ra cái thể thống gì nữa.




Tây thái hậu nghe xong càng thêm tức giận. Bà truyền dụ triệu kiến hoàng thượng lập tức. Quang Tự hoàng đế nghe lệnh triệu biết chắc đã có chuyện xấu rồi, vừa đi lòng ngài vừa nơm nớp lo ngại.




Bước vào cung hành lễ xong, Quang Tự hoàng đế chưa kịp mở miệng vấn an thì Tây thái hậu đã đập bàn quát:




- Ta thấy mi hồi này tuổi đã lớn hơn trước, hiểu biết cung đã khá hơn xưa, nên mới phó thác việc triều chính cho. Ai ngờ mi vẫn một mực ngu xuẩn làm bậy. Mi có biết tổ tiên xưa gây dựng cơ nghiệp khó nhọc bao nhiêu không? Hình như hồi này mi đâm khùng thì phải? Mi muốn dâng hết cả thiên hạ của bọn ta cho kẻ khác phải không?




Quang Tự hoàng đế vội vàng thỉnh an xong rồi nói:




- Mẫu hậu đừng nghe lời gièm báng của người ngoài mà oan cho con. Con tuy có bất tài nhưng quyết không tự ý làm bậy. Hiện nay con đang tìm đủ cách để sửa sang, xếp đặt lại mọi việc, quyết thế nào quốc gia cũng phải được cường thịnh, cho toàn dân cùng hưởng thái bình, hạnh phúc. Lẽ nào lại có chuyện dâng giang san cho kẻ khác. Cầu xin Thánh mẫu xét rõ cho…




Tây thái hậu không để cho Quang Tự hoàng đế nói hết câu, quát:




- Mi còn chối cãi nữa phái không? Thế cái sớ của thằng Vương Chiêu xúi giục mi làm gì, hả? Mi tưởng tao đui điếc đấy à?




Nói đoạn, Tây thái hậu cầm cả một tập sớ dày cộm ném xuống trước mặt hoàng đế rồi quát tiếp:




- Mi hãy xem kỹ cái này đi!




Một tên thái giám lượm tập sớ dâng lên. Quang Tự hoàng đế đón lấy xem một lượt, lúc đó mới biết đó là tập sớ đàn hặc những chỗ sai lầm của bọn biến chính Khang Hữu Vy, đồng thời kể vạch hết những lầm lẫn của chính mình.




Xem xong, Quang Tự hoàng đế lặng thinh, không nói nên lời nào chỉ cất giữ lấy tập sớ. Tây thái hậu cười nhạt bảo:




- Bây giờ thì mi rõ cả rồi chứ? Thôi! Đi về đi! Ta cho biết mà coi chừng. Từ nay về sau, cẩn thận một chút nghe!




Quang Tự hoàng đế nghe thái hậu nói, dạ dạ luôn mồm rồi lảo đảo lui ra. Khi về tới cung Kiền Thanh, hoàng đế đem tập sớ, xem xét lại một lượt nữa, mới biết bọn đàn hặc mình đông có tới hơn hai mươi tên. Bất giác, ngài nổi giận xé nát tập sớ ra từng mảnh vụn, dậm chân uất giận, miệng gằn lên từng tiếng.




- Cái lũ thủ cựu láo xược này, nếu không trừ tuyệt chắc không thể yên giấc!




Hoàng đế càng nghĩ càng tức tối.




Qua ngày hôm sau, lúc sắp bãi chầu hoàng đế thấy có Viên Thế Khải xin vào triều kiến, thỉnh huấn để xuất binh. Khải được cử nhiệm chức Tiểu Trạm huyện binh tổng biện do Tổng đốc Trực Lệ bảo tiến.




Quang Tự hoàng đế khuyến khích họ Viên vài câu rồi cho Viên lui ra. Nhưng sau đó, ngài sực nhớ ra rằng mình hiện thiếu mất một tay chấp chưởng binh quyền. Ngài tự nhủ: Khải hiện làm Luyện binh tổng biện, phải chăng là người có thể…




Nghĩ vậy, Hoàng đế vội truyền ngay dụ ra ngoài bảo Viên Thế Khải tạm hoãn việc xuất binh, vào cung Kiền Thanh kiến giá.




Viên Thế Khải nhận được chỉ dụ này, vò đầu bứt tóc mãi vẫn chẳng tìm ra manh mối, đành lại quay vào cung Kiền Thanh, có một tên thái giám đưa đường.




Chờ y ấn hành lễ xong, nhà vua nói:




- Lần này xuất kinh luyện binh, ngươi có thể dốc lòng trung với nước không?




Bị hỏi đột ngột một câu như vậy, Khải giật nẩy mình, mồ hôi toát ra như tắm, vội vã cất mũ, dập đầu tâu:




- Tiểu thần đâu dám không hết lòng trung với nước? Tiểu thần nghĩ rằng bao đời chịu hậu ân của hoàng gia, thì dù thây có nát, hồn có tan cũng không đủ để báo đáp, chứ đâu dám có dị tâm này nọ.




Quang Tự hoàng đế mỉm cười, gật đầu nói:




- Tốt lắm! Tốt lắm! Nếu ngươi có lòng vì nước trẫm sẽ giao cho ngươi một mật trát mà hành sự cẩn thận. Về sau sự thành, tất nhiên ngươi được trọng thưởng.




Nghe đến đây, Viên Thế Khải chợt biết rằng hoàng thượng tin cậy mình, còn có một việc ký thác, mới thấy thư tâm, tiếp đón mật trát và dập đầu tạ ơn lui ra.




Khi Viên Thế Khải nhận mật trát lui ra khỏi cung Kiền Thành thì bị một tên nội giám chạy ngược chiều húc một cái mạnh vào ngay giữa ngực Khải, chút xíu nữa ngã kềnh ra đất.




Tên nội giám sợ bị tội, vội vã chạy như bay để trốn tránh.




Khải định thần trong chốc lát, nhìn theo thì đã không thấy hắn đâu nữa.




Khải đâm nghi, tự lấy làm việc lạ. Khi về đến tư dinh, Khải đem mật trát ra đọc. Thì ra đó là mật lệnh của Quang Tự hoàng đế sai Khải đem quân giết Tổng đốc Trực Lệ là Vinh Lộc. Sau đó, kéo binh về kinh để quét hết cựu đảng của thái hậu.




Viên Thế Khải xem xong mật trát, lòng do dự không quyết.




Khải tự nhủ:




- Việc này đâu phải chuyện trẻ con. Vạn nhất sự cơ không mật, quyết chịu tội diệt tộc!




Khải trằn trọc suốt đêm chẳng ngủ được, chỉ tại cái mật trát. Khải nhớ lại cái người xô mình lúc ban ngày, khi ra khỏi cung Kiền Thanh. Cuối cùng, Khải đặt nghi vấn, cái người quái gở đó phải chăng là tên mật thám của thái hậu?




Viên Thế Khải suy đi tính lại mãi mà vẫn chưa dám quyết bề nào. Khải so sánh hai thế lực của thái hậu và của hoàng đế thấy rằng thế lực của hoàng đế thua tới hàng ngàn vạn lần và như thế, việc này nhất định hỏng. Chi bằng đi đầu thú là hơn. Chủ ý đã định, Khải lên đường ngay đêm đó ra khỏi kinh thành.




Gốc gác của Viên Thế Khải như sau: trước đấy, đã có lần làm Triều Tiên uỷ viên, rồi đến khi Vinh Lộc lên nhận chức Tổng đốc Trực Lệ, Lộc liền bảo tiến Khải làm Luyện binh tổng biện.




Khải có ba tay em út trợ lực: đó là Đoàn Kỳ Thuỵ, Phùng Quốc Chương và Vương Sĩ Trân. Ba tay này, người đương thời đặt hiệu cho là "Lục quân tam kiệt".




Viên Thế Khải vội vã xuất kinh chạy một lèo tới Thiên Tân, đưa mật chỉ của Quang Tự hoàng đế cho Vinh Lộc xem.




Lộc xem xong cả kinh nói với Khải:




- May quá! May quá!




Nói đoạn, Lộc bảo Khải giữ ấn tín Tổng đốc Trực Lệ giùm mình, rồi ngày đêm chạy vội về kinh xin vào cung yết kiến Tây thái hậu.




Tên nội giám chạy vào thông báo. Nhưng Lão Phật gia có chỉ ngày mai kiến giá. Vinh Lộc vô cùng bối rối lo lắng, bảo tên nội giám:




- Việc này đâu có đợi được đến ngày mai?




Tên nội giám lại chạy vào lần nữa, Tây thái hậu thấy Lộc tử Thiên Tân về, bất chấp cả ngày đêm nài xin yết kiến, đoán biết phải có chuyện chi khẩn cấp. Do đó, bà truyền cho Lộc vào tức khắc.




Vừa nhìn thấy thái hậu, Vinh Lộc phủ phục trên mặt đất, khóc rống lên. Tây thái hậu cả kinh hỏi:




- Mi có chuyện chi mà khóc lóc đau khổ quá vậy?




Lộc vừa khóc vừa cất tiếng bi thiết tâu:




- Cái mạng của nô tài con chẳng kể làm chi? Có điều ngay cả Lão Phật gia tính mạng e cũng đáng ngại nữa!




Nói đoạn, Lộc cầm tờ mật trát trình lên. Dưới ánh sáng của chiếc đèn bạch lạp, Tây thái hậu xem kỹ tờ mật trát. Nội dung như sau:




"Trẫm đăng cơ từ lúc nhỏ tuổi, chính quyền đều do mẫu hậu nắm giữ, khiến một lũ nghịch đảng hoành hành không kiêng nể ai cả.




Đã hai mươi năm qua, Trẫm chịu hết mọi khổ cực. Hoặc có khi chính kiến không hợp, bọn nghịch nó lại chế giễu Trẫm.




Bởi thế, Trẫm tuy có thiên hạ, nhưng thực ra chỉ có hư danh.




Nếu cứ như thế mãi, chẳng những Trẫm chỉ là trò cười cho thiên bạ mà còn mặt mũi nào nhìn thấy tiên hoàng nơi chín suối nữa? Rồi đây hậu thế cung chỉ cho Trẫm là một vì vua như nhược hèn yếu mà thôi! Càng nói Trẫm càng thấy đau lòng!




Nay Trẫm giao cho Viên Thế Khải cập kỳ xuất kinh, thống lĩnh bộ thuộc của mình, khắc kỳ khởi sự, tập sát Tổng đốc Trực Lệ Vinh Lộc, nhận ngay lấy chức khuyết, sau đó, tuỳ thời suất lĩnh quân hùng cường mạnh kéo thẳng về kinh, quét sạch nghịch đảng, bảo vệ hoàng thất, chấn chỉnh lại triều chính; chớ phụ ý Trẫm.




Khâm thử".




Tây thái hậu đọc xong, bất giác nghiến răng kèn kẹt, nói:




- Hừ! Cọp không ăn thịt người, người lại tính ăn thịt cọp.




Nói đoạn, bà bảo Vinh Lộc:




- Mi đi ngay, triệu bọn đại thần ngay đêm nay vào vườn bàn việc!




Lộc lãnh ý chỉ lật đật chạy vào Di Hoà viên, không biết còn có người vội vã hơn mình.




Số là khi Vinh Lộc chạy vào Di Hoà viên, tình cờ đã bị tên nội giám thân tín của Quang Tự hoàng đế là Khâu Liên Tài bắt gặp. Thấy Lộc hốt hoảng, lật đật, Tài đã có lòng nghi, nhủ thầm:




- Cái thằng Vinh Lộc này hiện nay làm Tổng đốc Trực Lệ, tại sao nó lại có thể bỏ nhiệm sở tới đây một cách dễ dàng như vậy nhỉ? Việc này ý hẳn có biến cố quan trọng nào đây.




Nghĩ vậy rồi Tài liền nhẹ nhàng bám riết Lộc. Tài nằm mép trên góc điện để nghe trộm, thấy Lộc khóc rống lên khi yết kiến thái hậu, sau đó dâng lên một tờ giấy viết nhìn gì không biết. Chỉ vì khoảng cách quá xa, Tài không cách nào nghe nổi lời Lộc nhưng đến khi thái hậu gầm lên thì Tài nghe rõ ràng: "Mi đi ngay, triệu bọn chúng vào gấp…", và sau đó thì Lộc vội vã cà nhót chạy ra khỏi vườn.




Khấu Liên Tài được biết rõ tình hình như vậy, vội chạy về cáo cấp cho Quang Tự hoàng đế…

Hồi 162 Số mạng bọn Khang, Lương




Quang Tự hoàng đế đang trò chuyện với Trân, Cẩn hai phi ở trong cung, thấy Khấu Liên Tài thở hổn hển chạy vào, vội hỏi.




- Vì sao ngươi hốt hoảng vậy?




Tài vội quỳ xuống đất, tâu bày hết những gì vừa thấy rồi nói tiếp:




- Vinh Lộc hiện đã ra khỏi vườn, không biết đi triệu những ai. Nô tài sợ chuyện có liên quan tới bệ hạ cho nên vội chạy về đây cấp báo.




Quang Tự hoàng đế nghe qua biết ngay rằng cơ mưu phó thác cho Viên Thế Khải đã bị bại lộ, và tin rằng hậu quả sẽ vô cùng tai hại. Ngài cho rằng việc dù có hệ trọng đến đâu đối với ngài cũng chẳng can gì, song đối với bọn thi hành tân chính thì e rằng khó thoát. Chẳng lẽ trố mắt ngồi nhìn họ bị chặt đầu, chém cổ, không động lòng thương xót? Do đó, ngài liền bảo Khấu Liên Tài chạy ngay đi báo cho Khang Hữu Vy. Giữa lúc quá cấp bách, không kịp thảo chiếu, ngài bảo Tài giơ bàn tay ra, viết ngay vào lòng bàn tay bốn chữ: Sự cấp tộc tẩu (sự gấp, chạy mau) rồi giục Tài đi ngay.




Khấu Liên Tài lãnh chỉ, chạy như bay tới nhà Khang Hữu Vy. Đêm đó, Vy vừa thảo từ sớ, rồi đi nằm nhưng chưa ngủ thì bỗng nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Cửa mở, Khấu Liên Tài bước vào, thở hổn hển gần như đứt hơi, muốn nói mà không nói ra lời, chỉ chìa vội bàn tay có bốn chữ của Quang Tự hoàng đế.




Khang Hữu Vy thoáng nhìn qua, biết ngay việc đã hỏng rồi, co giò vùng chạy ra khỏi kinh thành, không kịp mang theo cả quần áo.




Khang chạy luôn một mạch tới bến, nhảy xuống tàu ra Thiên Tân, xuống Thượng Hải, một lèo, mất hút.




Khấu Liên Tài làm tròn nhiệm vụ, quay về phúc chi, hành động không một ai hay biết!




Còn về Lương Khải Siêu? May cho Lương tối đó có việc phải lại thăm Khang để bàn tính. Lương vừa bước chân vào cửa, đã thấy sách vở, đồ đạc quăng ném lung tung, bề bộn, không một cái gì còn trật tự nguyên vẹn. Vội hỏi tên tiểu đồng, Lương được biết lúc gần canh ba có một người hốt hoảng tới nhà, chẳng thấy nói một câu nào, mà chỉ thấy chìa ra một bàn tay, thế là Khang chân tay quýnh quýnh vội nhảy ra ngoài bóng đêm chạy mất!




Lương vốn người khôn ngoan tinh ý, biết việc nguy đến nơi, lật đật chạy vào toà lãnh sự Nhật xin ty nạn. Lương nghe ngóng tình hình, vài ngày sau, quả nhiên được tin mọi việc đổ bể cả liền cải âu phục, theo viên phó lãnh sự Nhật Bản mà trốn luôn sang Nhật.




Hai tay trùm trong nhóm cải cách là Khang và Lương đã trốn thoát cả, cái hoạ lớn tất nhiên đè lên cổ bọn người còn lại. Ta lại kể tới cuộc mưu tính của Vinh Lộc để tận diệt đảng Tân chính theo lệnh Tây thái hậu.




Lại nói Vinh Lộc tối hôm đó, vội chạy đi triệu bọn đại thần như Cương Nghị, Hoài Tháo Bố, Hứa Ứng Quỳ, Tăng Quảng Hán, Tử Hội Phong vào ngay Di Hoà viên.




Vừa khấu đầu xong, cả bọn thấy Tây thái hậu vẻ mặt hầm hầm, giơ tờ mật trát của Quang Tự hoàng đế cho xem để bàn tính kế sách đối phó.




Cương Nghị dập đầu tâu:




- Theo ngu ý của nô tài, ngày nay chỉ còn cách giết bọn Khang, Lương, nếu không bọn nô tài sẽ bị chúng diệt sạch. Hạ thủ trước vẫn là phương sách tốt hơn cả.




Tây thái hậu lớn tiếng bảo:




- Không những ta giết hết mấy tên nghịch tặc đó, mà còn phế bỏ cả tên hôn quân nọ là khác!




Vinh Lộc vội quỳ xuống tâu:




- Tâu thái hậu! Việc này thiết tưởng không nên! Bởi vì rằng hoàng thượng lâm chánh, trong ngoài đều biết, nay vô cớ phế bỏ, ngoại nhân quyết vin vào đó mà dị luận. Theo ngu ý của nô tài thì xin mời Lão Phật gia lại nắm lấy triều chính, không giao quyền hành cho hoàng thượng nữa là hơn cả.




Tây thái hậu nghe đoạn sẽ gật đầu, tỏ vẻ đồng ý. Thế là bà tức tối hạ lệnh cho Cương Nghị đem quân thị vệ đợi lúc sáng mai lùng bắt bọn Khang Hữu Vy. Mặt khác, Tây thái hậu cùng bọn đại thần sẽ kéo tới xử trị Quang Tự hoàng đế.




Kế sách đã định, tất cả chỉ còn chờ trời sáng. Biện pháp thi hành tân chính của Quang Tự hoàng đế đến đây coi như cáo chung.




Quang Tự hoàng đế suốt đêm đó không sao chợp mắt được.




Trời sáng đã lâu mà ngài vẫn không lâm triều. Ngài lặng lẽ ngồi đợi biến cố xảy ra.




Chẳng bao lâu, quả nhiên, ngài thấy một tên nội giám tới tuyên triệu vào điện Di Lạc để yết kiến Thái hậu. Vừa hành lễ xong, ngài bỗng nghe bà lớn tiếng hỏi:




- Mi gọi ngoại thần đem quân về giết tao phải không?




Quang Tự hoàng đế thong thả đáp:




- Làm gì có chuyện đó?




Tây thái hậu càng tức giận, vội rút trong ống tay áo ra từ mật trát ném xuống mặt đất rồi quát:




- Đứa nào viết đây?




Quang Tự hoàng đế thấy chứng cớ đã hiển nhiên, không biết còn cách chi chống chế, che giấu nữa, bèn thuận miệng đáp luôn:




- Tử thần (con) giao cho Viên Thế Khải ý muốn quét sạch cựu đảng, có thế thôi, chứ tuyệt nhiên không dám kinh động tới thánh mẫu.




Tây thái hậu cười nhạt đáp:




- Không dám kinh động hả? Nếu không có Vinh Lộc báo tin sớm thì đến tao cũng là một tên tù quỳ dưới thềm rồi còn gì!




Nói đoạn, bà bĩu môi "xì" một tiếng, tức thì có bọn Lý Liên Anh nhảy tới, bất cần lời nói năng chống đối của Quang Tự, lôi tuột ngay ông vua cô thế về ngả Doanh đài.

Hồi 163 Tận diệt đảng tân chính




Sau khi đưa Quang Tự hoàng đế tới Doanh đài, Lý Liên Anh khụng khiệng nói:




- Xin bệ hạ đợi đây chốc lát. Nô tài còn phải về hầu hạ thái hậu.




Nói đoạn, Anh cùng bọn nội giám kéo nhau ra đi, để mặc Quang Tự hoàng đế ngồi một mình đợi chỉ của thái hậu.




Cũng sáng hôm đó, Tây thái hậu truyền chỉ lâm triều. Trên điện, chuông khua trống đánh inh ỏi vang rền. Bọn đại thần đủ mặt Mãn, Hán nườm nượp vào chầu. Bước vào điện họ ngẩng mặt lên nhìn, không thấy Đức Tông hoàng thượng đâu, mà chỉ thấy có Tây thái hậu. Mọi người giật mình kinh sợ, cố tìm hiểu lý do. Nhưng chưa tìm ra thì đã nghe Tây thái hậu lớn tiếng:




- Hoàng thượng tin dùng bọn Khang Hữu Vy, tự ý hạ chiếu sai Viên Thế Khải bí mật giết ta. Chúng thần các ngươi có biết hay không?




Câu hỏi vừa chấm dứt thì bọn đại thần thảy đều tái mặt, đầu cúi thấp hẳn xuống, im phăng phắc, không dám hồi tấu!




Tây thái hậu cười nhạt bảo:




- Bọn ngươi ăn lộc của nhà vua thì phải trung với vua, ấy thế mà chỉ ngồi làm vì, những việc động trời như vậy chẳng hề hay biết! Ăn lộc hưởng tước, thực uổng! Rồi đây, có ai đem cả giang san này dâng cho kẻ khác, hẳn bọn ngươi cũng chẳng cần biết đến!




Bọn đại thần nghe thái hậu trách mắng đủ điều, miệng câm như hến, vô cùng xấu hổ. Giữa lúc bầu không khí vô cùng nặng nề khó thở ấy, Cương Nghị từ ngoài chạy vào báo tin bọn Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vy đã trốn thoát, chỉ bắt được có sáu tên là Đàm Tự Đồng, Lâm Thâm Tú, Lam Húc, Dương Nhuệ, Lưu Quang Đệ và Khang Quảng Nhân.




Tây thái hậu truyền chỉ trói giật cả sáu người, kéo ra chợ Tây chặt đầu. Cương Nghị lĩnh chỉ lập tức thi hành.




Tây thái hậu chém bọn sáu người rồi, lại hạ lệnh, truy lùng Khang, Lương, đồng thời cho điều tra một lượt tất cả bọn triều thần. Phàm những kẻ ngày thường có qua lại với Khang, Lương hoặc đã từng dâng sớ tán dương tân chính, thảy đều bị trừng phạt.




Trong số đại thần bị liên luỵ thì người bị giáng chức như Trần Bảo Hàm, Lý Nhạc Đoan, Tông Bá Lỗ, Ngô Mậu Đĩnh, Trương Bách Hi, Đoan Phương, Từ Kiến Dần, Từ Nhân Trú, Từ Nhân Kính. Kẻ bị tống đi đầy có Lý Đoan Phân, Trương ấm Hoàn. Kẻ bị giam cần có Từ Trí Tĩnh, Trần Lập Tam, Giang Tiêu, Hùng Hi Linh. Bị khám xét nhà cửa có Văn Đình Thức, Vương Chiêu, Hoàng Tuân Hiên. Mặt khác, Tây thái hậu tức khắc phục lồi nguyên chức cho bọn công thần bậc nhất của mình như Hoài Tháp Bố, Cương Nghị, Hứa Ứng Quỳ, Tăng Quản Hán, Từ Hội Phong. Sau đó, còn thăng cho bọn họ mỗi người thêm ba cấp nữa.




Triệu Thứ Kiều được đưa vào quân cơ sứ. Vinh Lộc được nhậm chức quân cơ đại thần. Viên Thế Khải được bổ nhiệm làm tuần phủ Sơn Đông. Du Lộc được điều động sang Trực Lệ làm Thự Tổng đốc. Đau đớn cho ông Đồng Hoà bị lột hết quan tước.




Mọi việc được sắp xếp như trên, tuy đã xong xuôi, nhưng cái dư nộ của Tây thái hậu vẫn chưa tắt. Bà tới Doanh đài để xử trị hoàng đế.




Lúc này, Quang Tự hoàng đế như người mất hồn, ngồi trơ như tượng trong Doanh đài. Thấy Tây thái hậu sấn sổ bước vào, mặt hầm hầm, nhà vua vội đứng dậy hành lễ, đầu cúi gập xuống, đứng sang bên trông vô cùng thảm hại!




Thái hậu ngồi xuống, cố nén giận hỏi:




- Việc làm của mi, bọn ta đã biết cả rồi! Nay mi mong muốn điều gì thì nói!




Quang Tự hoàng đế tuy nghe rõ câu nói nhưng không trả lời Thái hậu nói tiếp:




- Theo ta thì phiền mi ở lại đây một thời gian!




Câu nói của Tây thái hậu vừa dứt, thì đã thấy thái giám Khấu Liên Tài phủ phục dập đầu tâu:




- Lão Phật gia ở bên trên, nô tài đâu dám tâu liều! Thánh chỉ của lão Phật gia như vậy là bắt hoàng thượng giam cầm tại đây vĩnh viễn rồi!




Tây thái hậu chưa kịp cất lời, thái giám Lý Liên Anh đứng bên đã quát lớn:




- Văn võ đầy triều thảy đều im lặng, mi là người gì mà dám ăn nói lếu láo trước mặt Lão Phật gia?




Khấu Liên Tài vội dập đầu tâu:




- Lão Phật gia gia ân tha thứ cho nô tài về điều đó! Nhân hoàng thượng thân chinh, trong ngoài đều biết. Nếu một sớm đem thay đổi hết, sợ rằng người ngoài có dị luận. Cầu xin Lão Phật gia thánh minh rộng xét cho.




Tây thái hậu nhìn Quang Tự hoàng đế cười nhạt nói:




- Một thằng thái giám thân tín mở mồm ra là nói đại chính, chẳng trách cái lũ nghịch thần hoành hành lếu láo nọ!




Nói đoạn, bà quát bảo Lý Liên Anh kéo cổ ngay Khấu Liên Tài tới Từ An điện chờ lệnh bà.




Rồi Tây thái hậu truyền lệnh cho bọn nội giám đánh gãy cây cầu đá bắc vào Doanh đài. Bà còn dặn chúng không cho bất cứ thuyền bè nào ghé vào, nếu không có lệnh bà.




Thế là Doanh đài bị cô lập hoàn toàn. Ngoài Trân, Cẩn hai phi bên mình, Quang Tự hoàng đế không còn ai tâm phúc, thân tín nữa. Bọn cung nữ cũng như thái giám ở lại đây đều là lũ chó săn của thái hậu, chuyên nghe ngóng để mách lẻo.




Tây thái hậu rời Doanh đài, trở về điện Từ An. Vừa về đến cửa điện, Lý Liên Anh chờ đón đã từ nãy vội quỳ xuống rước vào. Bà hô gọi đem Khấu Liên Tài lên quát bảo:




- Thằng kia! Tao biết mi thường nịnh bợ hoàng thượng đã a tòng đám tân chính, lại còn tư thông với ngoại thần, làm không biết bao nhiêu điều bất chính phi pháp. Lúc đó, tao không rảnh để xem tụi mi láo lếu làm bậy. Hôm nay thì không thể tha mi. Hãy khai thực hết những chuyện mưu tính giữa hoàng thượng và bọn Khang, Lương ra mau, may ra tao còn có thể ân xá tội danh, nếu không, tao cho mi theo luôn lũ Đàm Tự Đồng chết chẳng toàn thây!




Khấu Liên Tài lúc này mặt chẳng đổi sắc, lớn tiếng dõng dạc tâu:




- Nô tài hầu hạ hoàng thượng, chỉ biết có làm tròn chức vị, ngoài ra không biết gì khác. Nếu Lão Phật gia cố ép lời cung, thì nô tài chỉ xin có một cái chết.




Tây thái hậu giận lắm, gầm lên như con hổ đói mồi:




- Tội mi đã không thoát chết, lại còn già mồm phải không?




Tiếng gầm vừa dứt, thì một lệnh truyền tiếp theo. Bà quát bảo Lý Liên Anh dùng hình cụ. Tài biết khó thoát chết, bèn hô lớn:




- Hãy khoan! Để nô tài khai hết.




Thế rồi, Tài đem hết những chuyện đầu của tai nheo, những điều bậy bạ hư hỏng của Tây thái hậu khai ra hết, thao thao bất tuyệt trơn tru từ đầu đến cuối, từ chuyện dâm bôn cho đến chuyện chửa hoang rồi tư sinh đứa bé…




Tây thái hậu ngồi nghe, mặt giận đến tím lại, mà cũng sợ đến xám lại, vỗ bàn đập ghế rầm rầm quát bảo kéo Tài ra.




Khấu Liên Tài chẳng đợi cho bọn cung nhân xông tới. Y gồng hết sức, nhảy ào tới, húc đầu vào cây cột điện đến rầm một cái, sọ vớ nát, óc phọt ra bầy nhầy lẫn máu loang lổ cả một đám trên sàn điện.




Tây thái hậu chỉ vào xác Khấu Liên Tài quát:




- Khốn kiếp! Đúng là một lũ phản. Trước mặt tao mà hắn còn vô lê như thế đấy! Băm xác nó ra.




Lý Liên Anh được lệnh, đốc suất mấy tên tiểu thái giám khiêng xác Khấu Liên Tài xuống điện rồi truyền bảo bọn thị vệ đưa ra ngoài băm nát thây ra. Việc truyền xong, Anh theo hầu Tây thái hậu sang Như Ý quán nghỉ ngơi.




Như Ý quán ở đâu vậy? Ở trong Di Hoà viên, tại hiên Nông Lạc về phía bên hữu, cách gác Cảnh Phúc không bao xa. Trong quán trưng bày toàn là thư hoạ của các danh nhân.




Do đó, quán chính là một đồ thư quán. Bọn hầu hạ thái hậu tại nơi đây không phải là cung nữ, cũng chẳng phải thái giám mà toàn là một lũ "đực rựa" nghĩa là một bọn đàn ông điển trai khoẻ mạnh.




Khi cất Như Ý quán này, thái hậu đã từng ra cáo thị khảo bọn thanh niên mặt mũi thanh tú, có tài hội hoạ nhất là hoạ các loại hoa lá, cây cỏ. Do đó, bọn trai trẻ khắp các tỉnh phủ đều nườm nượp về kinh để ứng thi, lần tuyển lựa thứ nhất, chọn được một trăm bảy mươi tên. Qua lần thứ hai, do bọn nội giám khảo chọn lại, còn có năm mươi lăm tên… Bọn nội giám đưa năm mươi lăm tên này vào quán Chiêu Lưu để đợi đích thân Lý Liên Anh tuyển lựa lần thứ ba. Sau lần tuyển, này, đám đệ tử trai trẻ chỉ còn lại có mười một tên.




Nhưng mươi một tên còn phải được chính mắt Tây thái hậu duyệt xét lần chót nữa mới thực là trúng tuyển. Bởi vậy sau một cuộc kén chọn đến nơi đến chốn, hai tên trong số mười một tên được chấm đậu ưu tú nhất.




Tây thái hậu truyền lệnh cho hai tên trai trẻ này ở lại Như Ý quán để sai khiến, còn chín tên thì để lại quán Chiêu Lưu để phòng hờ khi cần đến!




Hai tên được thái hậu thì một người Trực Lệ, tên gọi Liêu Như Mi, còn một người Hồ Dương tỉnh Giang Tô, tên gọi Quản Cẩu An. Hai tên được Tây thái hậu thưởng cho hằng năm ngàn lạng bạc và mười tấm gấm hoa.




Liễu Như Mi và Quản Cẩu An, cả hai đều điển trai tài hoa, ngang nhau nhưng về nghệ thuật nịnh bợ, xu phụng thái hậu thì Mi thua An xa. Bởi thế chỉ trong vòng có nửa năm mà An được Tây thái hậu tín nhiệm hết mức, được coi như Lý Liên Anh thứ nhì vậy!




Quản Cẩu An xuất thân là một tên lãng tử giang hồ, khi mười bảy tuổi xông vào gánh hát Côn khúc ban, thờ một anh kép hát làm thày, hát bộ đóng tuồng hai năm liền. Về sau, An thua bạc, làm một mẻ sạch sành sanh trọn gói của sư phụ rồi chuồn thẳng. Bỏ gánh hát, An lang thang đến nửa năm rồi mới quay về quê. Ông già An ghét cái đời vô lại của An, một hôm mời cả họ lại họp chính thức từ con, đuổi An ra khỏi họ.




An bị tống ra khỏi nhà, cầu bơ cầu bất, không biết nương tựa vào đâu, bèn lỏn về nhà, chờ dịp đêm khuya, xem nhà cửa có gì góp gom được, nào là đồ cổ, nào là tiền bạc cuỗm luôn một mẻ, rồi chạy tuốt một mạch tới Bắc Kinh.




Đến Bắc Kinh, An lui tới không thiếu sòng bạc, tố quỷ nào, cho đến lúc không còn nổi manh áo tấm quẩn tử tế. May thay, trời phú cho cái giọng ca tuyệt hảo. An liền lợi dụng nó đi hát dạo, ngửa cái chậu thau xin tiền khách vệ đường. Cũng có khi An vào đại trong các quán rượu, lầu trà, hát lớn lên vài ba bản ca mùi mẫn. Bọn khách phương Bắc được nghe cái giọng ca phương Nam, lấy làm thú, móc túi cho tiền không phải là ít.




Rồi một hôm, cái hôm mà vận hạn đã đến với kẻ giang hồ lêu bêu, An hát dạo tới cái lầu trà ngoài cửa tiền môn của kinh thành.




Cái lầu đó gọi là Xuân Sắc lâu. Bọn thái giám thường lui tới lầu này để cất chén làm vui. Phía sau lầu có cất một cái rạp hát, chuyên chiêu mộ bọn cô đào con hát từ bốn phương tới đây để ca hát mua vui cho bọn thái giám trong cung.

Hồi 164 Tên lãng tử tốt số




Quản Cẩu An đã hát tại rạp này hơn một tháng rồi. Một hôm, viên nội giám tên gọi là Lý Lục Lục vừa uống trà vừa nghe An hát, bỗng ngạc nhiên khen lấy khen để.




Chờ cho vở tuồng vãn, Lục bèn kêu An tới gần, hỏi họ tên, quê quán, rồi thưởng cho An ba lạng bạc.




Lục đi rồi, bọn người trong rạp xô lại mách bảo An:




- Người vừa rồi thính là Lý lục gia đó! Lục gia đã để ý tới ngươi, thì đó là một cơ hội tốt đấy! Nếu ngươi kết giao được với Lão nhân gia thì lo gì không có cơm ăn?




Quản Cẩu An vốn thuộc loại khôn ranh nhạy cảm, tai lắng nghe, đầu gật mấy cái, cố nhớ kỹ trong lòng:




Qua ngày hôm sau, vào buổi chiều, Lý Lục Lục đang uống trà, An vội chạy ra chắp tay xá thỉnh an. Thôi thì Lục gia gia dài, Lục gia gia ngắn. An khéo tâng bốc, nịnh nọt đến nỗi chỉ trong chốc lát, Lý Lục Lục đã sướng tít thò lò, phổng cả đến mười cái lỗ mũi lên. Chưa hết, An lại nhân đà, lấy giọng tình lên một điệu ca, xin Lý Lục Lục chọn cho một bài thích nhất. Lý Lục Lục tuỳ hứng chọn luôn bản "Tảo tuyết" (quét tuyết)




Có bản ca rồi, An bèn đem hết tuyệt kỹ của mình ra. Quả nhiên An ca hay tuyệt. Bản ca không một chỗ nào phải chê. Tiếng ca của An chẳng khác gì tiếng ngọc chuốt, tiếng chuông ngân.




Lý Lục gia nghe sướng như điên, khen lấy khen để:




- Thằng oắt con này ca quả hay tuyệt! Lão Phật gia của bọn ta khoái được nghe ca lắm, để ta chỉ cho mi một con đường mới được.




Quản Cẩu An nghe câu nói, chẳng dám chậm trễ, vội chạy tới cạnh thỉnh giáo. Lục gia bảo An:




- Lão Phật gia của bọn ta hiện đã thiết lập xong Như Ý quán, nên đang cần vài đứa ca hay lại giỏi hoạ nữa để hầu hạ tại nơi đây. Chỉ tiếc rằng mi chỉ biết ca chứ không biết hoạ! Giá thử mi biết hoạ thì có phải bớt được biết bao nhiêu thủ tục mà vẫn được tuyển. Nhưng không sao! Để ta tìm cách giúp mi.




An nghe xong vội hồi đáp:




- Chẳng giấu gì Lục gia! Cái nghề nào không rõ, chứ cái nghề hoạ, thì xin thưa với Lục gia, tiểu nhân, chỉ cần chấm phá vài nét là bất luận sơn thuỷ hoa hỉ đều tuyệt cả. Nếu Lục gia không tin xin cho tiểu nhân vẽ thử.




Lý Lục Lục nghe An nói, vỗ tay đôm đốp, to vẻ khoái chí lắm, bảo An:




- Thế là tuyệt, còn gì bằng! Ấy vậy thì để sáng mai, ta đưa mi vào ngay quán Chiêu khảo.




Thế là hai người hẹn giờ ra đi, xong đâu đấy Lý Lục Lục mới trở về nội phủ, Quản Cẩu An thì lo thu xếp đồ đạc quần áo suốt đêm hôm đó để chuẩn bị dự thi.




Trời mới tờ mờ sáng, Quản Cẩu An đã vội chồm dậy ngồi đợi. Mãi tới gần trưa, An chỉ thấy một tên tiểu thái giám mang theo một gói đến quán trà hỏi viên thủ quỹ:




- Ở đây có một người họ Quản không?




An nghe hỏi vội nhảy tới đáp ngay:




- Chính tại hạ đây!




Tên tiểu thái giám nhìn An một chập từ đầu đến chân, hình như để đặt lòng tin tưởng rồi mới đưa cái gói và bảo:




- Thay đi, rồi đợi một lát sẽ cùng vào ứng khảo.




An vốn người điển trai, nay lại có quần áo mới diện vào, cạo cái mặt, sửa cái râu, thử hỏi làm sao chả khả quan.




Chỉ một lát, Lục gia đã tới. Để mắt nhìn kỹ An, Lục gia nhử thấy một người khác, một người bảnh trai, dáng mặt chàng Tống Ngọc, Phan An thuở nọ. Lý Lục gia khoái quá, cười lên hềnh hệch, bảo An:




- Mi đẹp như thế này, đến ta cũng phải yêu nữa là! Chuyến này vào ứng thí, ta cam đoan thế nào mi cũng trúng tuyển rồi!




An được tán dương nhưng không dám nhận, khom mình:




- Xin hoàn toàn nhờ vào hồng phúc của Lục gia đã có ý chu toàn mà thôi!




Lý Lục Lục mỉm cười khoan khoái, rồi đem An đi theo mình vào quán Chiêu Lưu. Vừa bước chân vào quán, An đã thấy thí sinh ngồi đầy cả, cười nói um sùm, không khí thật vô cùng náo nhiệt.




Một tên nội giám bước tới trước mặt Lý Lục Lục nói lớn:




- Lục gia cũng đưa người vào dự thi đó chăng?




Lý Lục Lục cười lên hềnh hệch đáp:




- Đúng vậy đấy! Thằng bé này được lắm! Xin nhờ liệt vị nương tay cho một chút nhé!




Cả bọn nội giám lúc này này đã xáp lại, vội đồng thanh đáp:




- Việc của ai chứ việc của Lục gia thì khỏi nói! Đương nhiên là phải đặc biệt lưu ý rồi! Xin Lục gia cứ yên lòng.




Nói đoạn, cả bọn cất tiếng đáp chia tay với Lý Lục Lục và đưa Quản Cẩu An sang phòng đợi tuyển.




Cứ mỗi lần tuyển lựa là mỗi lần An được chọn, và không ngờ được rằng Cẩu An ngày một cao giá hẳn lên: đúng là An đã gặp được vận rồi.




Số là từ khi được vào Như Ý quán, An được Tây thái hậu triệu kiến sai hắn vẽ hoa hỉ (vẽ các bức hoạ về hoa cỏ cây cối) dâng lên; và được bà tán thưởng hết mức. Thế là An được làm ngay cái chức chủ nhiệm quán Như Ý.




Một hôm trời đã tối, Cẩu An đang ngồi ca hát với mấy tên tiểu thái giám trong quán, bỗng một cung nữ bưng tới cho một mâm cơm, miệng cười hí hí bước vào. Vừa đến trước mặt Cẩu An, cô cung nữ liền bảo:




- Ngươi thật sướng nhé! Thái hậu đang giận ngươi đó!




Quản Cẩu An nghe đoạn, mặt thộn ra như đất, một tiếng cũng không nói lên được. Cô cung nữ nhí nhảnh, vừa cười vừa mở cái lồng bàn đậy mâm cơm ra, đưa cho Cẩu An và nói:




- Lão Phật gia sai đem cho ngươi đó. Hắn lát nữa, có lệnh tới tuyên triệu đó. Ngươi nên chú ý cẩn thận nhé!




An lúc đó mới yên lòng. Nhìn vào mâm cơm, thấy đều là trân tu mỹ vị, An vội vàng dập đầu tạ ơn rồi đứng thẳng người lên, nhưng đứa cung nữ đã đi ra rồi.




Quản Cẩu An băn khoăn lắm, chẳng hiểu thái hậu có chuyện gì dùng tới mình mà sủng ái mình đến thế! Phải chăng đây là một chuyện sai bảo có quan hệ tới sinh mạng? Chẳng đi thì mang tội nghịch chỉ, mà đi thì lại sợ nguy đến tính mạng. An nghĩ vớ nghi vẩn một hồi, chẳng tìm ra cách nào để quyết định. Nghĩ đi thì vậy, nhưng khi nghĩ lại, An lại cho rằng mình bất quá chỉ là thân ăn mày hát dạo, may mà được gặp Lý Lục Lục chứ nếu không vẫn là thân ăn mày, chiếu một manh quần trăm mảnh, lang thang lê gót trên phố vắng xin tiền. Ngày nay được sung sướng như vầy, dù có chết ngay tức khắc, cũng chẳng còn tiếc nỗi gì. Nghĩ tới đây, An bỗng cảm thấy lòng mình hứng khởi, tinh thần càng thêm vui tươi.




Chẳng mấy lúc, con cung nữ khi nãy lại tới, lớn tiếng nói:




- Thái hậu có ý chỉ, truyền cho Quản Cẩu An đến Trí Tuệ hải kiến giá.




An vội vàng xốc áo sửa khăn lại cho đàng hoàng, rồi bước theo con cung nữ ra đi về hướng Trí Tuệ hải. Đi quanh co trên đường, An thấy đèn đuốc sáng choang. Cảnh trí vô cùng u nhã. An đi qua cứ mỗi chặng đường, đều thấy có bọn nội giám đứng chực hai bên cật vấn kỹ càng. Nhờ có con cung nữ biết ám hiệu nói ra, lúc đó An mới được thong dong tiến bước, không còn ai ngăn cản.




An vừa thoăn thoắt bước đi, vừa để mắt nhìn quanh. An thấy đền đài lầu gác nguy nga xinh đẹp, chẳng khác chi như bức tranh vẽ.




An đi loanh quanh một lát tới Chuyển Luân tạng, bên cạnh có chiếc đồng hồ xây trụ bằng đá hoa, có thể xem giờ khắc ngày đêm. Từ đây, An lại đi tới Thinh Ly điện. Về đầu phía đông điện có một ngôi đình kiến trúc rất tinh xảo trên đề ba chữ "Hoạ trung du" to bằng cái đấu một.




Quản Cẩu An theo gót đứa cung nữ qua hết nơi này đến nơi khác, lại tiến qua một căn thạch động, rồi đi xuyên qua một ngôi đình nhỏ, lúc đó mới thấy từng lầu cao vòi vọi, trên đề ba chữ "Trí Tuệ hải".




An đi tới phía dưới lầu, có ý muốn dừng bước. Con cung nữ cười bảo:




- Còn xa! Ngươi cứ việc đi lẹ lên theo ta!




An nghe nói gật đầu mấy cái, tiếp tục lên đường. Lại đi loanh quanh một hồi qua đến tám, chín khuỷnh đường, An thấy một ngôi nhà hình như làm toàn bằng đá tảng, có hai lầu cửa bên ngoài bên trên đều có vẽ long phượng. Đến đây, cung nữ bảo An:




- Ngươi ở lại chờ, ta vào phúc chỉ đã nhé!




Nói đoạn, bước đi ngay và mất hút trong nhà đá, mặc cho An đứng ngơ ngác phía ngoài.




Mười phút sau, cung nữ trở ra, dặn dò An:




- Thái hậu đang ở trong đó! Ngươi nên cẩn thận!




An đáp nhỏ một tiếng rồi cùng đứa cung nữ tiến vào toà nhà đá. Lại đi qua bốn lần cửa nữa. An thấy phía trong rộng hẳn ra, nghĩ rằng nơi đây còn có một phương trời khác, An bèn quay mặt nhìn quanh bốn phía thì thấy ngay chính giữa hình như có một toà đại sảnh, trên đề ba chữ "Luân Lạc đường".




Đi qua toà đại sảnh này, An thấy bên hông một dãy nhà bằng nóc chạy dài chừng mười mấy căn, bên trong trần thiết hết sức hoa lệ.




Chính giữa một căn nhà này đèn đuốc sáng chưng, Quản Cẩu An nhanh mắt sớm đã thấy Tây thái hậu ngồi một mình đang xem sách. An lúc này chẳng chờ cung nữ vào trước tâu lên nữa, mà tự mình bước tới khấu đầu yết kiến.




Tây thái hậu thong thả bỏ cuốn sách xuống, sai cung nữ cho phép An ngồi, rồi vừa mỉm cười vừa hỏi An nào là mấy tuổi, nào là gia cảnh ra sao. Sau khi An lần lượt tâu xong, Tây thái hậu lại hỏi:




- Ngươi biết hội hoạ, vậy ngươi có phân biệt được nét hoạ của người Tống không?




An vội tâu:




- Tiểu thần mắt thịt, sợ rằng phân biệt không nổi.




Tây thái hậu gật đầu bảo An:




- Nếu vậy, thì ta cho ngươi xem bức hoạ này nhé!




Nói đoạn Tây thái hậu quay lưng đi thẳng vào buồng trong.




An run lập cập bước theo sau, ngay cả hơi cũng không dám thở nữa!




Sợ như vậy mà An vào buồng trong một mạch, mãi tới gần trưa ngày mai mới quay về đến quán Như Ý. An theo Thái hậu vào trong xem cổ hoạ hay đọc sách! Đố ai biết được. Nhưng ngươi ta chỉ thấy từ sau đêm đó, An bất cứ lúc nào cũng có thể bị gọi vào trong. Ngoài ra, An còn lấy thêm một con cung nữ làm vợ. Ở phía ngoài cửa trước, toà nhà đồ sộ rộng lớn đó chính là nhà của Tây thái hậu cho An ngự đấy. Phải chăng đó là vận may của một tên lãng tử?

Hồi 165 Quyền giáo phò Thanh diệt Dương




Tây thái hậu, sau khi cầm tù hoàng đế Quang Tự lại đích thân nắm quyền chính dự việc triều đình, bỏ rèm nghe chính… Một bọn đại thần chấp chưởng quyền hành trong nước như Vinh Lộc, Cương Nghị, Triệu Thư Kiều, thảy đều là tay chân, cánh vây thân tín của bà. Còn bọn cựu thần thì ngoài Vương Văn Thiều ra, một phần lớn đều bị cách chức, hoặc là bị tống ra biên ải đi lính thú. Sở dĩ Thiều còn được ngồi tại chức cũ là nhờ ở sự giao du thân mật với Vinh Lộc mà ra.




Lúc này, Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu ở Nhật Bản lại đã thành lập được một tổ chức gọi là hội Bảo Hoàng, tôn chỉ của hội là ủng hộ vua Đức Tông, xua đuổi Tây thái hậu.




Người phụ hoạ với Khang, Lương gia nhập hội này rất đông.




Tin tức này truyền về Trung Quốc, đến tai Tây thái hậu, hậu rất lấy làm lo ngại. Bà liền cho họp bọn quân cơ đại thần để mong tìm một biện pháp.




Theo ý Tây thái hậu thì tuy bọn Khang, Lương ở xa mãi hải ngoại nhưng cuối cùng vẫn là đáng sợ cho bà. Nếu không tìm được một kế sách để diệt trừ bọn này thì không thế yên được. Cả bọn trong bàn hội nghị suy đi tính lại mãi một lúc lâu mà vẫn không tìm ra kế sách gì gọi là lương sách.




Cương Nghị muốn làm đẹp lòng Tây thái hậu, liên mật tâu:




- Theo ngu kiến của nô tài thì bọn Khang, Lương ở hải ngoại hoạt động, thực chẳng phải chỉ có mỗi một mục tiêu là bảo hoàng mà thôi đâu. Tìm cách trừ được chiêu bài của bọn chúng, duy chỉ có việc lập sử (lập vua nối ngôi) để mình nắm chắc được quyền vị đã, sau đó dần dần thiết kế chính vị, và chém cỏ trừ gốc. Chúng không còn biện pháp đối phó nữa, ắt tự nhiên phải tan!




Mấy lời khuyên này của Cương Nghị đã làm cho Tây thái hậu thức tỉnh. Bà gật đầu: đồng ý lia lịa, rồi tức tốc truyền lệnh lo việc lập sử.




Nghe được tin tức lập sử, bọn thân vương chi gần, bọn bối lặc, bối tử, anh nào lại chẳng nghĩ đến cái mồi ngon nó sẽ đến với mình trong tương lai. Bởi thế bọn thân vương ngang hàng với Đức Tông tấp tểnh đem con trai mình ứng cử ngôi kế vị. Họ nghĩ rằng một khi con mình đã lên ngồi trên ngôi báu rồi thì làm sao chả có cái ghế nhiếp chính vương dành cho mình. Thế là trong bóng tối, họ ngầm chơi nhau, tranh giành lẫn nhau, vô cùng kịch liệt.




Trong đám thân vương mưu đồ ngôi báu này, người ta chỉ thấy có Phổ Tuấn con của Đoan vương Tải Ỷ, là có nhiều hy vọng nhất.




Thuần Vương Tải Phong, bối lặc Tải Lan cũng hăng hái chạy chọt đến nát cả gót giày. Nhưng cuối cùng lại bị Đoan vương chiếm mất ưu thế. Ấy cũng vì chuyện tranh giành này nên sau mới có chuyện ghen ghét nhau, rồi chia năm xẻ bảy, thù nghịch nhau lung tung. Bất quá chỉ là tại khí số của nhà Thanh đã đến lúc hết, cho nên mới xảy ra tình trạng nát bét như vậy.




Con trai của Đoan vương là Phổ Tuấn sở dĩ được lập sử, sự thực ra cũng có một nguyên do quan trọng bên trong. Nguyên lai bà phúc tấn, vợ Đoan vương vốn là người đẹp sắc nước hương trời, Tây thái hậu thường cho gọi vào trong cung để bầu bạn với mình và với bọn cách cách. Cái hay của bà phúc tấn là khéo chiều người, vì thế rất được lòng Tây thái hậu.




Phổ Tuấn nhờ mẹ cũng được phép ra vào trong cung cấm. Phải cái Phổ Tuấn ngu dốt đến tệ hại. Hai chữ "đọc sách" đối với Tuấn hình như là cái gì "oan gia đến bảy kiếp". Đọc sách thì chê, nhưng lang thang hết đầu chợ cuối phố, len lỏi vào những tổ quỷ hang chuột thì lại rất lành nghề. Do đó bất luận là Huy điệu, Tần xoang, Côn khúc v.v… tất cả Tuấn đều hát được, tuy không mê ly lắm nhưng cũng lọt tai. Những lúc rồi rảnh, thái hậu thường bảo Tuấn ca lên vài bản nghe chơi và thường lưu Tuấn trong cung bên cạnh bà.




Lần này lập sử, bọn đại thần đương nhiên đều tiến cử Phổ Tuấn, rất hợp với ý của Tây thái hậu. Bởi Tuấn là một tên ngu dốt, đần độn thì tuy ngai vàng Tuấn ngồi, nhưng quyền bính vẫn nằm trong tay bà hết. Bà nghĩ nếu cho một kẻ thông minh tài trí ngồi vào chiếc ngai vàng nọ, ắt có ngày lại xảy ra cái vụ chính biến nữa, nên bà quyết lập Phổ Tuấn lên ngôi hoàng đế.




Ý đã định, Tây thái hậu bèn cho gọi ngay Đoan vương Tài Ỷ vào Di Hoà viên để nghị sự. Bà đem chỉ dụ lập Phổ Tuấn lên nối ngôi Đức Tông, tức là Mục Tông cho vương xem.




Đoan vương mừng rơn, vâng chịu ngay. Vương bèn chọn ngay ngày lành giờ tốt để đưa cậu con trai mình vào làm hoàng đế tương lai, gọi là Đại A Kha.




Thế là Tây thái hậu đã thực hiện được phần đầu của kế hoạch. Sang phần thứ hai, bà lấy danh hiệu lập sử chiêu dụ trong ngoài, từ đại thần tiểu thần đến quần chúng chuẩn bị phế bỏ Đức Tông để đưa Tuấn lên chính vị hoàng đế. Mặt khác bà thông báo cho các quan lại khắp nơi biết là sang năm mới sẽ có cuộc đăng vị của tân quân.




Chỉ dụ này vừa ban bố ra chưa được bao lâu thì bọn cựu thần như Vương Mông Lâu, Tôn Dục Văn đều dâng sớ lên tranh biện phải trái.




Bọn cương thần ngoài biên ải như Lý Hồng Chương, Trương Chi Động, Lưu Khôn cũng gởi tấu chương về triều như bươm bướm để can gián. Họ lấy lý do Đức Tông chưa từng làm điều gì thất đức, chớ nên bầy chuyện phế lập để sinh rắc rối. Ngoài ra, bọn ngoại quốc như Anh, Pháp, Nhật, Nga cũng gởi thư cảnh cáo. Bọn này thì sợ việc phế lập này sẽ gây ra chuyện khủng hoảng nội chính cho Trung Quốc, có hại cho quyền lợi của họ.




Tây thái hậu thấy tình hình xôn xao như vậy, chỉ đành gọi bọn đại thần vây cánh vào cung bàn tính. Sử quân (vua nối ngôi) đã sẵn rồi, chỉ còn có việc phế lập. Nhưng nên để khi tình thế bên ngoài tạm lắng dịu lúc đó hãy tính.




Việc ngăn trở này đột nhiên xảy ra, khắp triều chẳng có anh nào dám bàn chuyện phế lập nữa. Duy chỉ có Đoan vương Tài Ỷ là tức đến hộc máu, gầm gừ hậm hực suốt ngày. Ông tiếc cái phút vinh hoa khi được thấy thằng con trai Phổ Tuấn của ông ngồi ngất ngưởng trên ngôi báu. Ông còn tức một điều nữa là cái bọn ngoại nhân kia tự dựng nhảy vào chuyện. Bọn đình thần cũng như bọn cương thần, ông còn có thể dùng uy quyền áp chế để thực hiện ý minh được, chứ đến những điều khuyến, cáo nảy lửa và nguy hiểm của bọn ngoại quốc thì quả khó mà vượt qua. Bởi thế, Đoan vương sau chuyến làm thái thượng hoàng hụt này, càng lấy làm căm tức bọn ngoại quốc, coi như không đội trời chung. Từ đó về sau, ông thường nghĩ mưu tính kế để báo thù, hết đặt chước này lại đến bày phép nọ, mong sao đuổi cho bằng hết bọn chúng ra khỏi đất nước.




Rồi ông đi kiếm bọn Tải Lan, Cương Nghị trù hoạch một kế sách để đối phó với ngoại nhân. Tục ngữ có câu: "Vật có thối thì dòi mới sinh". Đoan vương vì hận thủ riêng tư mà dồn mọi nỗ lực trả thù bọn Tây dương nên bọn Quyền giáo mới thừa dịp mà khởi sự được. Đó phải chăng do số trời?




Thôi việc đó ta hãy tạm gác.




Phe Quyền giáo vốn gốc gác tại tỉnh Sơn Đông. Thủ lĩnh của phe này là Trương Loan, tàn dư của Bát quái giáo.




Sau khi bị quân Thanh tiêu diệt, Bát quái giáo đã lâu không xuất đầu lộ diện. Trong chiến dịch năm Giáp Ngọ (Trung - Nhật chiến tranh) triều đình nhà Thanh cam chịu cắt đất cầu hoà. Những ai giàu nghĩa khí đều lấy làm tức, bàn tính xôn xao, kẻ thì nói Thanh đình nhu nhược để đến nỗi bị ngoại nhân khinh rẻ Trung Hoa, kẻ thì bảo từ đây Trung Quốc sẽ bị cái cảnh chia dưa xẻ bí, không còn cách chi an bình nữa.




Trương Loan thấy lòng dân tức giận, hùng khí lên ngùn ngụt, bèn mưu tính với con gái là Trương Tú Anh và con rể là Lý Lai Trung dựng cờ khởi sự, lấy danh nghĩa là "phò Thanh diệt Dương". Đi tới đâu, Loan truyền giáo tới đó, hiểu dụ quần chúng vào đạo, vào đảng của mình.




Trương Loan biết khá về tả đạo bàng môn, bèn lợi dụng ngay xảo thuật này chữa bệnh cho người, khi bằng bùa, khi bằng chú, cũng có chút ít hiệu nghiệm, thành thử lôi kéo được khá nhiều người vào đảng.




Giữa lúc này, một dịp may hiếm có tới với Loan. Số là Dục Hiền, tuần phủ Sơn Đông có một người thiếp yêu sinh đẻ khó khăn, lo thầy chạy thuốc mãi không xong. Trong lúc cấp bách, Hiền chẳng có chủ ý gì cả, nghe có người tiến cử Trương Loan, chẳng hỏi han gì, vội cho người đi mời ngay vào.




Trương Loan dùng phù chú chẩn bệnh. Sau đó chẳng hiểu Loan dùng quỷ thuật gì mà vừa niệm xong mấy câu thần chú, cái thai bỗng ra cấp kế. Cả hai mẹ con thế là toàn mạng. Dục Hiển mừng quá, đã mừng lại phục nữa, liền cho đem ngay cái kiệu của chính mình tới công đường để đưa Loan về.




Vài ngày sau, Dục Hiền sai người đem ba ngàn quan tiền đến để tạ ơn Loan. Nhưng Loan không chịu nhận một đồng nào, chỉ yêu cầu Hiền một điều là ra yết thị để bảo vệ Loan, có thế thôi.




Dục Hiền cũng chẳng do dự gì, liền sai ra yết thị khắp nơi, hiểu dụ cho toàn thể quan lại các quận huyện trong tỉnh, rằng Nghĩa hoà quyền vốn là một loại Nghĩa dân, chỉ lo phù Thanh diệt Dương, vì vậy quan lại địa phương nên phải bảo vệ cho họ.




Quan tỉnh đã ra yết thị như vậy, thử hỏi bọn tép riu dưới quận huyện làm sao mà dám động tới Nghĩa hoà quyền? Thế là tại Sơn Đông, Loan tha hồ làm mưa làm gió, không hề bị ngăn trở. Quần chúng mê tín càng ngày theo càng nhiều, thế lực của Loan chẳng mấy hồi mà mạnh lớn. Cô con gái Trương Tú Anh tự là Hoàng liên thánh mẫu, tuyển mộ một đội phụ nữ, người nào cũng mặc áo đỏ và quần đỏ, tay cầm cái đèn đỏ, đi khắp đó đây tuyên truyền rằng: Súng đại bác của bọn mọi da trắng Tây dương tuy có lợi hại, nhưng ta chỉ lấy chiếc đèn đỏ rọi một cái là nổ tan tành ngay.




Ấy cũng vì thế mà khắp cả vùng Sơn Đông loan truyền huyền thoại về cái đèn đỏ rọi. Lại còn huyền thoại về loại bùa thiêng, cứ hễ đeo vào mình thì lúc xông trận không bao giờ bị đao, kiếm, nước, lửa làm cho bị thương cả. Tin tức này truyền ra ngoài, chẳng đầy nửa năm, đảng vũ của Loan đã lên tới tám, chín ngàn người. Những nhà thờ đạo Công giáo xây cất ở Sơn Đông của bọn Tây dương chẳng mấy ngày đã bị tín đồ của Loan phá huỷ, đốt cháy hết. Chưa đã, bọn Loan còn đi lùng giết các cha đạo, đánh đập những người theo đạo Công giáo.




Khi đó thế lực của bọn Tây dương và của các đạo Công giáo chưa mạnh, bởi thế khi bị Nghĩa hoà quyền tấn công chẳng làm gì được, chỉ đành chạy lên nhờ quan tuần phủ can thiệp.




Nhưng Dục Hiền vốn trót quý trọng Trương Loan, hơn nữa cũng chẳng ưa gì bọn Tây dương cũng như đạo Công giáo cho nên chỉ ậm ừ khuyên giải đôi ba câu lấy lệ mà thôi.




Uy thế của Nghĩa hoà quyền càng ngày càng lớn. Bọn Tây phương đến lúc này quả có hãi sợ. Nghe tới Nghĩa hoà quyền anh nào anh nấy đều xanh mày xám mặt. Dục Hiền bị điều động đi tỉnh khác, Viên Thế Khải được đổi tới làm Sơn Đông tuần phủ. Lúc Khải tới, Nghĩa hoà quyền đã đến lúc cực thịnh, gây không biết bao nhiêu chuyện ngang ngược tại nơi đây.




Viên Thế Khải thấy bọn Trương Loan quá lộng hành, biết thế nào cũng có điều chẳng lành về sau, bèn truyền lệnh cho tổng trấn đem quân đánh dẹp. Nghĩa hoà quyền bị đánh tan tác Thủ lĩnh Trương Loan chết trận, chỉ còn vợ chồng Trương Tú Anh và một số đồ đảng sống sót.




Tuy nhiên, Nghĩa hoà quyền lúc này đã thành lập xong, ở khắp các tỉnh đều có tổ chức. Thấy Sơn Đông tình hình nguy ngập, không thể lập cước được, tất cả kéo nhau sang Thiên Tân. Tổng đốc Trực Lệ là Du Lộc thấy Nghĩa hoà quyền kéo cờ phù Thanh diệt Dương, rất lấy làm quý trọng. Lộc đã chẳng những mời Lý Lại Trung vào trong công đường đàm đạo, lại còn cung đốn ăn uống đầy đủ. Thế lực của Nghĩa hoà quyền ở Thiên Tân mạnh dần. Hơn nữa, từ sau khi Lý Hồng Chương được bổ nhiệm làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, huấn luyện xong đoàn quân Thần hổ doanh binh mã thì số quân này đều thuộc quyền điều động của Đoan vương, là người coi Tây dương như kẻ thù bất cộng đái thiên.




Vương tính tìm cơ hội báo thù cho vơi bớt nỗi oán hận chất chứa lâu nay, bèn cho huấn luyện binh sĩ ngày đêm cho thật thuần thục để chờ lúc dùng tới. Khéo thay, sự đời có chỗ gặp gỡ tài tình; số là Cương Nghị nhân có dịp tuần du xuống miền Nam trở về, qua Thiên Tân. Gặp được Nghị, Du Lộc bèn đem chuyện Nghĩa hoà quyền ra nói, có mấy lời đặc biệt này:




- Nghĩa hoà quyền có chủ trương phò Thanh diệt Dương, đó là hồng phúc cho Thanh triều ta thoát được sự thôn tính của bọn mọi bên ngoài. Nếu ta đem việc này tâu về triều, được thái hậu ban khen thì đại sự ắt thành công. Nhà Thanh ta ngày mai trùng hưng lên được, đó chẳng phải là một công lớn sao?




Cương Nghị với Du Lộc vốn là con cô con cậu. Bởi thế, khi nghe lời khích của Lộc, Nghị tin ngay, không nghi ngờ gì cả, lại còn cho hợp ý mình là khác, bèn tỏ ý tích cực ủng hộ Nghĩa hoà quyền, một khi về tới triều…




Khi Cương Nghị về tới kinh, Đoan vương đem việc tập luyện Thần hổ doanh ra bàn với Nghị và có ý định muốn đem đổi ra làm hai trấn. Nghị nhân dịp nói vào:




- Quân mã của Thần hổ doanh vốn còn theo cựu chế của Tăng Tả trước đây (Tăng Quốc Phiên), lúc đó đem dùng đánh bọn tóc dài còn được, chứ bây giờ đem ra để chọi với bọn Tây dương thì hỏng bét. Vương không nhớ tới trận đánh năm Giáp Ngọ sao? Trời! Súng đại bác của bọn quỷ trắng quả lợi hại thật đó.




Đoan vương nghe xong, cười nhạt rồi nói:




- Nếu vậy thì bọn ta đành phải chịu để bọn Tây dương lăng nhục suốt đời, làm sao thấy cái ngày báo phục được nữa?




Nói xong, Đoan vương thở dài đánh thượt, vẻ mặt vô cùng thất vọng, Cương Nghị thấy thế vội nói:




- Nói thế thì ra dân mình hèn quá chăng? Thoạt đầu lúc bọn "tóc dài" khởi sự, chúng ghê gớm biết chừng nào, ấy thế mà cuối cùng cũng tan nhừ xác pháo. Đã có người này ắt có người kia. Đã có cái mạnh này ắt có cái mạnh khác. Đó phải chăng do hồng phúc của bản triều ta?




Đoan vương thấy Cương Nghị nói có lý lắm, bèn thành tâm với Nghị:




- Lão già này vốn nằm mọp nơi kinh thành, chẳng hiểu tí gì nơi biên cảnh. Ngươi tử các tỉnh xa trở về, nếu được biết có kẻ nào sẵn tài phá tan được súng đạn thì hãy tiến cử cho ta xem. Ta sẽ lập tức tâu lên Thái hậu mời ngay người đó vào kinh trọng dụng.




Cương Nghị nói:




- Vương gia đã có ý chân thành như vậy thì hay lắm. Hiện nay, có cánh quân của Nghĩa hoà quyền uy danh dậy khắp bốn phương, vương hãy vời bọn đó lại mà dùng, coi có được việc không?




Đến đây, Nghị bèn đem chuyện Du Lộc chiêu nạp bọn Nghĩa hoà quyền, rồi tán dương nào là bọn chúng lợi hại ra sao, là Du Lộc đã thí nghiệm như thế nào, súng đạn quyết không thể nào đả thương chúng được, nên đem cải tên thành Nghĩa hoà đoàn…




Nghị thao thao bất tuyệt nói toàn những chuyện lạ lùng, thần thánh khiến Đoan vương vui sướng quá, vỗ vai Cương Nghị bảo:




- Trong thiên hạ này mà còn có cái loại thần binh đó thì thực là trận giúp nhà Đại Thanh ta rồi!




Nói đoạn, vương lập tức sai Cương Nghị truyền báo Du Lộc cho Nghĩa hoà quyền tức tốc ngày đêm tiến kinh để đợi lệnh điều động.




Cương Nghị nghe nói, chính đúng ngay tim mình, tức thì chạy đi thông báo cho Dụ Lộc biết và bảo tuỳ nghi hành sự.




Đoan vương sau đó cũng vào triều, đem việc Nghĩa hoà đoàn thần thông quảng đại chủ trương bảo Thanh diệt Dương, tâu lên Tây thái hậu. Ai ngờ bị bà lập tức bác bỏ. Đoan vương thấy thế bèn ra thương nghị cùng Cương Nghị một mặt chiêu tiếp bọn Nghĩa hoà đoàn, một mặt nhờ Lý Liên Anh nói hùn vào trước mặt Tây thái hậu.




Quả nhiên kế sách này có giá trị. Tây thái hậu tuy lúc đầu không tin nhưng về sau thấy bọn thần tử của mình chúng khẩu đồng từ xem ra tán dương rõ rệt, bà cũng đành nghe theo.




Bọn Nghĩa hoà đoàn ở Thiên Tân bèn nườm nượp kéo nhau vào Bắc Kinh. Bất cứ tới đâu họ cũng lập đền để truyền đạo Bạch Liên giáo, mặt khác, đất phá nhà thờ đạo Công giáo, bắt được người công giáo nào cũng gán cho cái tội gián điệp thông đồng với bọn quỷ trắng Tây phương, bán nước cầu vinh, giết liền.




Bọn công sứ của các nước Tây phương thấy thế đứng lên can thiệp, nhưng Tổng đốc Trực Lệ Du Lộ vốn đã được bọn Đoan vương chỉ bảo, cứ lờ đi, chẳng phân xử gì cả. Bọn công sứ Tây chẳng còn cách nào hơn là điều binh khiển tướng bảo vệ lấy mình.




Tin tức đến tai Nghĩa hoà đoàn. Bọn họ yêu cầu Đoan vương cho kéo tới vây quán công sứ. Đoan vương nhất thời không dám tác chủ, còn đang do dự. Nhưng bọn Nghĩa hoà vây phía ngoài quán càng ngày càng đông, đánh trống đánh mõ, hò hét om xòm, chỉ chực nhảy bổ vào phía trong để nuốt chửng lấy bọn ngoại quốc.




Giữa lúc gay cấn đó, viên thư ký sứ quán Nhật Bản tên là Sam Sơn Bân Mộc và viên công sứ Đức quốc tên là Khắc Lâm Đức cưỡi xe cũng vừa đi tới. Bọn Nghĩa hoà đoàn chợt trông thấy viên thư ký Nhật nọ, liền đồng thanh hô lớn: "Giết thằng Nhật Bản, báo thù cuộc chiến bại Giáp Ngọ".




Người thì đông, tiếng hô thì to, thế là chẳng còn ai nghe ai, máu bốc lên, họ xông vào kẻ đấm người đạp, kẻ đâm người chém. Tên Nhật bị vằm ra như cám ngay trên chiếc xe của y. Viên công sứ Đức thấy thế nguy, biết không thể nói năng, giải thích gì được, liền quay đầu ù té chạy. Người Nghĩa hoà đoàn thấy y chạy, vội hô lớn: "Giết thằng Tây phương! Giết thằng Tây phương!" Cả đám đông lại nhảy ào tới, vây viên công sứ Đức vào giữa, rồi cũng giết béng luôn. Chưa hết, đám đông Nghĩa hoà đoàn còn diễu võ dương oai một hồi lâu rồi mới dần giải tán.




Đoan vương thấy chuyện đã tùm lum lên rồi, sợ Tây thái hậu bắt tội, vội vàng gọi bọn Cương Nghị, Từ Đồng, Triệu Thư Kiêu lại mật nghị. Bàn tính mãi, cả bọn mới quyết định nguỵ tạo một bức thư cảnh cáo của công sứ đoàn buộc Thái hậu quay về nắm chính quyền, phế bỏ Đại A Kha, lập tức mời Quang Tự hoàng đế lâm triều ngay hôm đó. Bàn xong, cả bọn kéo nhau tới yết kiến Tây thái hậu.




Lúc đó, Vinh Lộc đã được tin bọn Nghĩa hoà đoàn giết viên công sứ Đức và viên thư ký Nhật Bản, vội chạy vào báo cho Tây thái hậu hay. Lộc tâu với bà:




- Đoan vương dung túng cho bọn tà giáo giết chết viên công sứ, sau này thế nào cũng gây thành hoạ lớn chứ chẳng phải chơi.




Tây thái hậu nghe tâu, thầm trách Đoan vương làm bậy. Bà vừa định cho lệnh gọi thì đã thấy Đoan vương hối hả chạy vào, trình bức thư cảnh cáo giả mạo kia lên.




Tây thái hậu đọc xong bức thư, chính vì bức thư này chọc tức và nhè đúng chỗ kiêng kỵ nhất, bất giác bà cả giận đùng đùng. Bà quát lên rầm rầm, bọt mép như muốn tung lên đến tận đám mây xanh.




- À, thì ra mấy thằng quỷ trắng này dám can thiệp vào nội chính của ta. Rút lui khỏi chính quyền hay không cái đó tuỳ ta, chúng can dự gì mà dám can thiệp. Hà! Chúng bay đã dám lếu láo, xấc xược như vậy, ta sẽ đuổi hết chúng bay cho mà coi!




Thấy Tây thái hậu nổi xung, Đoan vương vội tâu:




- Nô tài đã đánh điện điều động quân cảm dũng của Đổng Phúc Tường về kinh; chỉ tối nay hoặc sáng mai là tới. Khi quân đến đông đủ, thì chỉ hô lên một tiếng là vây hết lại, tóm cổ từng thằng một mà đuổi cho bằng hết ra khỏi kinh, thế là rảnh mắt.




Tây thái hậu nghe tâu, gật gật cái đầu. Vinh Lộc đứng hầu bên cạnh, biết Tây thái hậu đang cơn thịnh nộ, không dám cản ngăn. Nhưng cả triều văn võ, ai cũng biết rằng vây công sứ quán, đuổi hết ngoại nhân là một việc chẳng lành.




Do đó, bọn đại thần người Hán là Từ Dung Nghi, Hứa Cảnh Trừng, và cả bọn đại thần người Mãn như Liên Nguyên, Lập Sơn nhất tề rủ nhau vào can gián.




Tây thái hậu cơn tức chưa nguôi, cất tiếng nói lớn:




- Bọn các ngươi chỉ biết bảo vệ, che chở cho lũ mọi ngoại quốc Tây phương, chứ không biết bọn chúng khinh khi bản triều quá sức à?




Bọn Từ Dung Nghi còn muốn tâu bày này nọ thêm nhưng Tây thái hậu đã lớn tiếng quát bảo thị vệ bắt giải hết cả bọn giao cho Hình bộ nghị tội.




Đoan vương thấy cơ hội vô cùng thuận lợi cho mình, bèn thừa dịp tâu lên:




- Bọn Từ, Hứa đã từng tư thông với ngoại quốc, chứng cớ đã rành rành. Nếu không trừng phạt để răn đe họ, e rằng về sau còn biết bao kẻ noi theo làm hại. Bọn Hán gian này quyết không thể dung tha, xin thái hậu xử trị.




Tây thái hậu gật đầu tức thì giao việc giám trảm này cho Đoan vương đem tất cả bọn Từ, Hứa trói giật lại rồi điệu ra chợ cửa đông để chém.




Khắp triều văn võ bá quan, anh nào anh nấy mặt tái xanh đi, hai hàm răng run lên lập cập, im phăng phắc. Nhiều người ứa thầm nước mắt vì thương cho hạnh tủi cho mình.




Sau khi bọn Từ, Hứa bị chém rồi, những kẻ nào bị nghi là Hán gian lập tức đem chém ngay. Hán gian ở đây chỉ những ai tư thông với bọn da trắng Tây dương. Ngoài ra những kẻ nào không tin tà giáo cũng bị đem ra xử tội nữa. Tà giáo đây tức là thứ tín ngưỡng của Nghĩa hoà đoàn.




Đảng cũ của Nghĩa hoà đoàn ở Bắc Kinh, xây một cái đài thật cao, tuyên truyền rằng đây là nơi triệu thần mời thánh.




Văn võ bá quan trong triều mỗi ngày đều phải tới đàn này để xì xụp lạy. Ví thử có kẻ nhất định không lễ lạy, thì bất luận là Mãn hay là Hán, thảy đều bị kết án là tư thông với ngoại quốc.




Ấy chỉ có mỗi một chuyện đó thôi mà quan người Hán, kẻ bị giết, kẻ bị tội, con số lên tới quá nửa, ở lại chỉ còn lèo tèo có ít người. Cựu thần như Vương Văn Thiều cũng suýt không thoát. Giữa lúc Tải Lan dâng sớ xin chém hết những tên Hán gian, thì trong bản phụ có nói đến cả Vương Văn Thiều, nhổ cỏ phải nhổ cả rê. Hổi đó, Vương Văn Thiều cùng làm việc với Vinh Lộc tại quân cơ xứ. Theo luật lệ của triều trước, đại thần quân cơ Mãn cũng đều là đại học sĩ. Các tờ sớ tâu lên của các triều thần, phải được đưa cho viên quan Mãn coi trước, sau đó mới đưa cho quan người Hán.




Hôm đó, Vinh Lộc ngồi xem tờ sớ của Tải Lan, đến tờ phụ bản thấy có tên Vương Văn Thiều liền giấu ngay đi, coi như không có, rồi xem tiếp qua các tờ sớ khác. Vương Văn Thiều tiếp sau đó cũng xem tờ sớ của Tải Lan, quay đầu lại hỏi Vinh Lộc:




- Lan công cũng còn có một phụ bản nữa, ngài để đâu rồi?




Vinh Lộc trả lời lại một cách hàm hồ:




- E rằng bị thất lạc rồi chăng?




Vương Văn Thiều nghe vậy cũng chỉ còn biết gật đầu. Hai người xem xong tấu chương, rồi lên yết kiến Tây thái hậu trình tâu hết mọi tờ sớ. Xong đâu đấy, Vinh Lộc mới rút ở trong ống tay áo ra tờ phụ bản trình lên cho Tây thái hậu xem và nói:




- Thái hậu nghĩ xem có phải Tải Lan nói tầm bậy không?




Tây thái hậu tiếp lấy tờ phụ bản, xem xong, bỗng biến sắc nói:




- Ngươi có thể đảm bảo việc này cho hắn được à?




Vinh Lộc dập đầu tâu:




- Nô tài nguyện đem cả trăm mạng để xin đảm bảo.




Tây thái hậu lớn tiếng nói:




- Vậy thì ta giao hắn cho ngươi. Nếu có gì biến sau này ta cứ ngươi chịu tội nghe chưa?




Vinh Lộc vội dập đầu tạ ơn rồi lui ra:




Vương Văn Thiều lúc đó cũng quỳ ở bên cạnh, nhưng bị nặng tai, nên không nghe thấy gì.




Lại nói tới bọn Nghĩa hoà đoàn đập phá các sứ quán ngoại quốc, đáp lại, các nước chỉ còn cách điều động quân hạm đổ bộ thẳng vào Thiên Tân.

Hồi 166 Tây thái hậu trốn chạy ra Nhiệt Hà




Bọn Nghĩa hoà đoàn càng gây chuyện càng hăng. Chúng đi đập phá lung tung. Trong khi đó các chiến hạm ngoại quốc tấn công cửa bể Đại Cô, nã đại bác vào các pháo đài ven bờ.




Đô đọc Trực Lệ Nhiếp Sỹ Thành, Xuyên quân Lý Bỉnh Hành, Thiểm quân Mã Ngọc Côn, nhất thời không có cách chi địch nổi, đành phải quay giáo chạy lui. Còn bọn Nghĩa hoà đoàn thì mới được nếm có loạt đại bác đầu đã chạy có cờ, mặt xanh lại như gà cắt tiết, chân như muốn đóng đinh luôn xuống đất.




Nhiếp Sỹ Thành hô quân xông lên. Vừa được vài bước, không ngờ một viên đại bác bắn trúng ngay vào, khiến đầu Thành vỡ tan ra, máu me loang lổ cả đám cỏ già trên mặt đất, chết ngay tức khắc.




Mã Ngọc Côn một mình một ngựa chạy biến. Lý Bỉnh Thành thấy toàn quân đã tan rã, rút kiếm tự tử chết luôn.




Thế là pháo đài Đại Cô thất thủ. Liên quân tám nước: Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nhật, Nga, Ý, Áo đổ bộ lên Thiên Tân. Tư lệnh hạm đội Đức quốc là Ngoã Đức Tây tổng chỉ huy quân đội Liên quân hạ lệnh tiến thẳng vào Bắc Kinh, bức bách kinh thành.




Tin tức truyền đi nhanh chóng. Tình hình thực vô cùng khẩn trương, tổng đốc Du Lộc uống thuốc độc tự tử, Vinh Lộc lúc này bấn loạn, vội chạy vào Di Hoà viên tâu Thái hậu:




- Bát quốc Liên quân đánh phá Đại cô, hiện đã bức bách Bắc Kinh.




Nghe Vinh Lộc tâu trình một lượt, Tây thái hậu vội cho triệu Đoan vương và Cương Nghị vào Di Hoà viên để hỏi chuyện.




Đoan vương nghe tin tức đồn đại bện ngoài, mà tin nào cũng dữ, trong lòng đã có ý sợ hãi, nay được lệnh của thái hậu truyền vào, biết thế nào thái hậu cũng cật vấn và trách quở, nhưng không đi không được, bởi thế vương đành phải cùng với Cương Nghị líu ríu kéo nhau vào.




Sau khi bọn Đoan vương tham kiến xong, Tây thái hậu tỏ ý giận tức đến cực độ, cất tiếng hỏi:




- Chủ chiến lần này đều do bọn ngươi gây ra. Hiện mọi việc đã hỏng hết rồi, tình trạng đã thế, bọn ngươi còn không biết tìm lấy một kế sách chi để đối phó nữa sao?




Đoan vương và Cương Nghị đứng cả bên cạnh Tây thái hậu miệng nín thinh, không nói lên được lời nào.




Giữa lúc đó, bỗng có nội giám hất hoảng chạy vào báo:




- Ngoại binh đã kéo tới đang hướng súng để nổ vào thành.




Tây thái hậu hoảng hồn thất sắc, mặt xanh như chàm đổ.




Vinh Lộc thấy việc nguy cấp quá rồi, bèn tâu:




- Việc đã quá gấp. Quyết không thể nào để cho bọn ngoại nhân kéo vào đây để giày xéo làm nhục được. Theo ngu kiến của nô tài, kính xin Thái hậu ngự giá xuất kinh, tạm thời tránh khỏi cơn nguy là hơn.




Tây thái hậu nhỏ lệ hỏi:




- Lúc cấp bách này, đi đâu được bây giờ chứ?




Tuy nói vậy chứ rồi bà cũng gọi ngay mấy người thân tín lại bàn tính sơ qua để quyết định. Thế là cá bọn chấp thuận chạy lên Nhiệt Hà, rồi sau hãy hay.




Mọi việc đã rõ. Cương Nghị được lệnh ra ngoài sửa soạn xa giá, một mặt tới Doanh đài thông báo cho Quang Tự hoàng đế biết, đồng thời triệu tập hết cung tần, mỹ nữ lại để chuẩn bị lên đường.




Trân phi lúc đó cũng có mặt trong đám, nước mắt chạy quanh đứng ngay bên cạnh thái hậu. Tây thái hậu thấy thế, chọt nhớ tới chuyện xưa, thấy chuyện ngày nay còn hối hả gấp gáp hơn chuyện thất trận năm Giáp Ngọ nhiều, trong lòng càng lấy làm ghét cay ghét đắng Trân phi, vì bà cho rằng thế nào bà cũng bị nàng chê cười mai mỉa. Bà nguýt Trân phi một cái dài thượt, cười nhạt nói:




- Hiện nay mọi người đã chuẩn bị ra đi, còn "bà" thì thế nào?




Trân phi giơ chiếc khăn hồng lên gạt lệ nói:




- Xin nghe theo lời chỉ dạy của thái hậu cả.




Tây thái hậu nói:




- Theo ý bọn này thì vào lúc gấp gáp hối hả này, con gái trai trẻ xuân sắc đi đường chẳng tiện, mà ở lại đây thì lại bị chúng làm nhục, thôi thì bọn ta để mặc "bà" tự quyết lấy.




Trân phi nghe xong lời nói này biết rằng mình khó thoát được nghịch cảnh, bèn nhỏ lệ đáp:




- Thần thiếp đã mong được ân tứ. Duy chỉ phải hoàng thượng là một vị vua của một nước, muôn vàn không nên rời kinh mà đi xa. Nếu không, trong kinh không chủ, biết lấy ai để thu xếp mọi việc!




Trân phi vừa nói tới đây, Tây thái hậu đã quát ầm lên:




- Quốc gia đại sự, đã có ta và hoàng thượng gánh vác, không cần đến mi phí nhiều lời.




Nói đoạn, Tây thái hậu lệnh cho nội giám ban cho Trân phi một cái chết toàn thây. Hai tên nội giảm chạy đi lấy chiếc chăn rộng, chụp lấy Trân phi, bó chặt lại rồi khiêng tới cái giếng trong vườn, ném xuống.




Lúc này, Cẩn phi cũng có mặt bên cạnh, thấy em gái bị hành hình như vậy, bất giác động lòng oà khóc. Quang Tự hoàng đế cũng tính can ngăn nhưng bởi vẫn e sợ Thái hậu nên đành thúc thủ. Thật đáng thương cho một kiếp hoa.




Giết xong Trân phi như nhổ được cái gai trước mắt, Tây thái hậu vội cải trang thành người dân chạy loạn, leo lên xe, mặt buồn rười rượi. Vinh Lộc chạy tới xin lệnh, bà nói:




- Sau khi bọn ta chạy khỏi kinh thành, tất cả mọi việc đều do ngươi tạm thời định đoạt. Còn nếu bọn Tây dương chấp nhận mở cuộc hoà nghị, ngươi tự nghĩ lấy ý chỉ, triệu tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Hồng Chương lên kinh, cùng với Khánh vương Dịch Khuông Đồng làm đại thần toàn quyền để nghị hoà. Nghị hoà đã xong xuôi, bọn ta sẽ hồi loan.




Vinh Lộc nhận dụ xong lui ra, Tây thái hậu quay lại nhìn bọn đại thần theo xa giá chỉ vỏn vẹn có hai người là Vương Văn Thiều và Triệu Thư Kiều mà thôi. Bà nhớ tới hồi nào ăn mừng lễ thượng thọ mà càng thêm xúc động can trường.




Không chần chừ, Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế vội vã khởi hành. Khi xa giá ra khỏi cửa Đức Thắng môn, thì đã có Mã Ngọc Côn đem theo bốn, năm trăm quân đợi sẵn.




Đó là đoàn quân của Vinh Lộc đã chuẩn bị để bảo vệ thái hậu và hoàng thượng Tây hành.




Xe chạy được vài chục dặm, lúc đó vua tôi mới sực nhớ ra rằng không mang theo lương thực. Bụng người nào người nấy đói meo. Khổ cái là đây lại thuộc vùng hoang vu rậm rạp, chẳng thấy một mái nhà, một xóm làng nào cả.




Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế đành phải nhịn đói gắng gượng lên đường. Nhưng phải cái bọn phu xe đói quá, khiêng vác không nổi nữa, đành nằm quay ra bên đường, ngổn ngang như những thây ma, nhất định không chịu đi nữa. Mãi sau, đích thân Tây thái hậu đành phải hạ thân vỗ về khuyến khích, chúng mới cố gượng đi tiếp.




Xe đi gập ghềnh, người ngựa đều đã quá mệt. Lại vài ba chục dặm nữa, đoàn người mới thấy được một thôn trang bên vệ đường. Bọn nội thị, cung nữ lần đầu gặp cảnh gian truân người thì nằm bò trên xe, kẻ lăn quay ra vệ đường, trông mà thê thảm.




Tây thái hậu nhìn trước trông sau chợt cảm thấy lòng mình như bất nhẫn, như xúc động mãnh liệt. Bà truyền lệnh ngừng xe. Lý Liên Anh chạy vào trong thôn hỏi bọn dân làng:




- Bọn ta vốn thuộc gia đình quyền quý, tỵ nạn qua đây. Nhân lúc đi quá vội, không kịp đem theo lương thực, tiền nong, bởi thế mong các người cung cấp cho chút ít thực phẩm. Mai sau về kinh, bọn ta sẽ xin hậu tạ.




Bọn dân quê thấy đoàn người mặt mày đều hốc hác, tai tóc bơ phờ nhưng vẫn còn y nguyên cái vẻ quyền quý trên người, bèn tranh nhau đem cơm nước ra.




Ai nấy ăn uống ngon lành, kể cả Quang Tự hoàng đế và hoàng hậu cũng như Cẩn phi, người nào cũng ăn uống đôi chút, chỉ riêng Tây thái hậu, làm sao mà nuốt cho trôi cái thứ gạo lức khô đến cháy cổ đó được? Bất giác bà rưng rưng nước mắt nhìn Quang Tự hoàng đế rồi cất tiếng run run nói:




- Bọn ta sống trong cung cấm, làm sao biết được cái cảnh khổ cực của dân! Ngươi nhìn xem, chúng chỉ có cái thứ cơm đó để no lòng thôi đấy. Còn bọn ta, ngày nào cũng mâm cao cỗ đầy, ấy thế mà vẫn cho là không vừa miệng. Có từng trải gian nan mới biết sự đời không dễ.




Nói đoạn Tây thái hậu khóc lên hu hu, tiếng khóc vô cùng bi thiết. Trong đám tòng vong cạnh thái hậu, còn có cả ba con gái của Khánh vương, Bối tử Phổ Luận và bọn Quế công phu nhân… Nhìn thấy tình cảnh bi thương của Tây thái hậu, cả bọn xúm lại khuyên giải, an ủi, một mặt cho đoàn người tiếp tục lên đường. Đi một thôi nữa thì gặp chợ. Tây thái hậu lại sai Lý Liên Anh đem theo một bọn người vào trong chợ để tìm cơm kiếm nước. Tây thái hậu cũng như Quang Tự hoàng đế và hoàng hậu mệt quá, chẳng buồn xuống nữa! Ngồi liền mãi trên xe cho đến sáng mai.




Qua hôm sau, xa giá lại khởi trình. Tây thái hậu bị thuốc hành, vì đã hai ngày bà chưa được mồi thuốc phiện vào người, hơn nữa cũng đã hai ngày không ăn bà mệt lử, ngồi co ro trong xe, chẳng khác gì cái xác không hồn.




May thay, đến gần trưa, xe chạy tới địa phận huyện Hoài Lai, Tây thái hậu cho Lý Liên Anh đi trước thông báo cho viên tri huyện là Ngô Gia Khôi. Được tin, hắn hốt hoảng chạy ra khỏi thành nghênh tiếp, rồi đặt tiệc khoản đãi.




Đến lúc Tây thái hậu, hoàng thượng và hoàng hậu dùng cơm, bữa cơm tuy nói rằng của quan huyện đãi nhưng cũng chẳng lấy gì gọi là sang, chỉ tại miền Hoài Lai này cũng là miền nghèo túng, khổ cực. Thực ra, thì bữa cơm của quan huyện Hoài Lai cũng còn ngon hơn bữa cơm của bọn dân nghèo hôm qua nhiều.




Tây thái hậu ăn xong, gọi huyện lệnh phu nhân giúp chải lại mái tóc. Bà ở ngay trong cái phòng khách của huyện đường.




Đợi cho thái hậu và hoàng thượng yên giấc, Lý Liên Anh mới lẻn ra ngoài đi tìm một bộ bàn đèn với một chút thuốc về. Cái dọc tẩu chỉ là một cái ống trúc đã cũ, hai mép lem nhem. Còn cái bàn đèn, trời ơi! Nó dơ dớp sao chứ!




Tây thái hậu nhìn thấy những của nợ nọ, nhiều lúc lợm giọng, nhưng cơn nghiện đã bắt đầu lên, thì chẳng cần kể đến chuyện dơ hay sạch nữa. Bà cố rít mấy điếu cho đã thèm. Nhờ được bữa thuốc mà đêm đó bà ngủ một giấc ngon lành, khi thức dậy, lại tỉnh như sáo sậu. Thật là một loại thuốc tiên!




Bọn nội thỉ cung nữ hôm đó cũng được một bữa no say, sung sướng. Tây thái hậu buột miệng than thở:




- Người ta có khổ mới biết sướng! Câu nói đó không ngờ hôm nay lại đặt vào miệng ta.




Sáng hôm sau, thái hậu thức dậy. Tri huyện Hoài Lai đi thuê thêm mấy cỗ xe để đưa thái hậu và hoàng thượng, hoàng hậu lên đường.




Đoàn người ra đi vừa được nửa ngày, bỗng nghe tiếng la lối quát tháo om xòm ở phía trước. Tây thái hậu lúc này chẳng khác gì chim sợ là cây cong, mặt biến sắc, từ màu xanh ra màu đen sậm vội cho người chạy lên trước hỏi xem có biến cố gì xảy ra. Viên nội giám chạy đi một lúc rồi quay lại hồi tấu Thì ra đó là cánh quân năm trăm của Mã Ngọc Côn hết lương, suốt ngày phải theo giá tây hành, bụng đói meo mà không có ăn, muốn làm reo, không chịu đi nữa, xúm lại cãi cọ nhau, suýt nữa choảng nhau.




Tây thái hậu nghe lời tâu của viên nội giám, nhất thời chẳng nghĩ ra kế gì, chỉ còn cách truyền lệnh cho bọn cung nữ lột hết những trâm vàng thoa ngọc trên đầu ra để khao thưởng cho đám quân đang có ý phản đến nơi, để chúng vui lòng ra đi, lòng bà thầm mong không còn một trở ngại nào trên đường.

Hồi 167 Hoà ước Bắc Kinh




Gặp bao nỗi vất vả gian nan Tây thái hậu lặn lội mãi mới tới Thái Nguyên. Tuần phủ Cam Túc là Sầm Xuân Huyên đem quân Cần vương theo tới kịp. Bọn đại thần khác như Vương Văn Thiều, Triệu Thư Kiều cũng lục tục kéo đến.




Lúc này Tây thái hậu tâm thần hơi yên, lệ nhỏ ròng ròng trên đôi má hóp lại vì phong trần, run run nói với Sầm Xuân Huyên:




- Bình sinh, thực ta chưa từng gặp phải cảnh khốn khổ này bao giờ. Đấy, khanh cứ xem, xưa kia bao kẻ lúc nào cung một chung, hai chung, thế mà khi hoạn nạn thấy được mấy ai? Khanh không nề nao khổ, hoạn nạn theo chân, mai yên ổn về kinh, ta quyết không quên.




Nói đoạn Tây thái hậu giơ tay vỗ mạnh vào lưng Sầm Xuân Huyên khóc rống lên, Huyên thấy tình cảnh quá bi thương, vội tìm lời an ủi:




- Thái hậu nên bảo trọng mình vàng, chớ có bi thương quá độ Sự an ninh trên đường bộ, đã có tiểu thần lo liệu, quyết chẳng có điều gì xảy ra, xin thái hậu yên lòng.




Tây thái hậu nghe xong câu nói, nuốt lệ gật đầu, truyền chỉ tạm trú lại Thái Nguyên. Song thái hậu đã bị một phen hoảng sợ, do đó, phủ đài tỉnh Sơn Tây liền tiến cử Huyện thăng Diệp Thừa Tự tới nơi để chần trị cho bà. Tự hốt một thang thuốc "hoà vi thư can", uống vào bà thấy có đỡ một đôi phần.




Tin tức từ Bắc Kinh cho hay tình hình chiến sự vô cùng hiểm nguy. Tây thái hậu lòng càng thêm lo lắng muôn phần. Bà tức tốc truyền lệnh xa giá tây tiến.




Việc ra đi này, đối với vua Quang Tự thực chẳng được ngài đồng ý. Vì đã không tán thành buổi đầu nên khi thấy Tây thái hậu còn muốn giá hạnh Tràng An thì cực lực phản đối. Thế là hai mẹ con đâm ra cãi nhau. Cuộc cãi vã om xòm xảy ra đến mấy lần. Nhưng Tây thái hậu vốn người vừa cương quyết vừa ngang bướng, nào có chịu nghe ai. Quang Tự hoàng đế chống chẳng lại đành phải riu ríu đi theo.




Khi xa giá đến Tràng An, Tây thái hậu liền hạ chiếu tự bắt tội mình. Cũng chính lúc này, tại kinh thành Bắc Kinh, Vinh Lộc đã nghĩ đến việc viết chiếu thư, triệu Lý Hồng Chương tiến kinh mở cuộc nghị hoà.




Trong bàn hội nghị, viên đầu lãnh của Đức quốc do tám nước đề cử, đưa ra những điều khoản vô cùng khắc nghiệt.




Lúc đầu, mọi người tưởng như không thể nào hoà hội được. Mãi về sau, phải nhờ đến cái óc thông minh của Lý Hồng Chương mới có thể tìm ra được một con đường khéo léo để giải quyết.




Con đường tốt đẹp đó chẳng qua chỉ là một người đẹp tên gọi Sai Kim Hoa. Nàng Sai Kim Hoa vốn là một danh kỹ, lại còn là cục cưng của Hồng Dung. Khi Hồng Dung được lệnh đi sứ qua nước Đức, có chơi thân với viên thượng uý pháo binh Đức tên là Ngoã Đức Tây. Sai Kim Hoa cũng thân với viên thượng uý này lắm. Theo tập quán của Tây phương, thì chuyện nam nữ giao thiệp vốn rất tự nhiên, cho nên mối quan hệ giữa Hoa và Ngoã càng có chỗ thân mật, dẫn tới say mê nhau, nhất là Ngoã lại có tính hiếu sắc, đặc biệt là cái sắc của làn da mịn màng, thân hình thon thả của người con gái Đông phương.




Đến lúc về nước, Hồng Dung quay ra ốm nặng, sau một thời gian liệt giường đâm ra bất lực; khiến Sai Kim Hoa tuổi xuân còn hơ hớ chẳng biết trông cậy vào đâu.




Khi liên quân tám nước bức bách cửa bể Đại Cô ở Thiên Tân, quân Đức lấy danh nghĩa là báo thù cho viên công sứ Khắc Lâm Đức, tuyên chiến với Trung Hoa. Ấy cũng vì chỗ đó nên các nước chầu rìa khác đã suy tôn Đức lên làm minh chủ, rồi viên tướng Đức Ngoã Đức Tây mới vọt ngay lên chức thống soái liên quân.




Lý Hồng Chương vì chuyện nghị hoà cấp bách, đành phải uỷ thác nhiều việc cho Sai Kim Hoa, nhất là việc đến tỷ tê, ỷ ôi để tán tỉnh, khuyên giải viên tướng Đức dại gái này.




Ngoã Đức Tây lâu ngày nay mới gặp lại người tình thuở nọ, biết bao sung sướng. Thế là chỉ qua một đêm viên tướng Đức thay đổi ngay thái độ: hôm qua gay cấn bao nhiêu thì hôm nay lại dễ dãi bấy nhiêu, chẳng những thế, Ngoã ta còn quay lại tích cực giúp đỡ Trung Quốc. Kết quả: cảnh binh đao chấm dứt, ngai vàng nha Thanh còn nguyên vẹn. Nhưng Lý Hồng Chương thi ngay sau đó lâm bệnh và… từ giã cõi đời.




Tây thái hậu được tin Lý Hồng Chương chết, lấy làm xót thương lắm, lập tức hạ lệnh ban thưởng cho tang quyến một vạn đồng bạc để làm ma chay. Ngoài ra, bà còn sai Dịch Khuông thay mặt triều đình đi điếu để an ủi anh hồn của người tôi trung liệt. Sau hết, còn thưởng tứ cái tên thuỵ là Văn Trung.




Xin nhắc lại nơi đây những điều ước trong cuộc nghị hoà giữa Lý Hồng Chương và bát quốc liên quân. Hoà ước có mười hai điều cả thảy. Tuy nói rằng hoà ước đã ký nhưng còn bao nhiêu thủ tục đâu đã xong. Tây thái hậu liền phái Vương Văn Thiều đến thay thế Lý Hồng Chương, để kết toán cho kỳ xong một phen đại hoạ.




Biến cố lịch sử tưởng có mòi làm tan tành cả sự nghiệp của bao đời tổ tiên Thanh triều dày công xây dựng lên, may thay đã trôi qua dù còn có người coi đó như một cơn ác mộng.




Ngồi buồn, Tây thái hậu lúc đó mới kiểm điểm lại mọi việc, nhất là cái việc đã chính tay mình gây ra. Bà thấy rõ ràng là một việc nhục quốc táng quyền, mình chỉ còn biết trách mình mà thôi. Bất giác, hai hàng lệ từ từ lăn trên đôi gò má bà lúc này đã xám đen đi vì phong trần, cũng có khi vì thiếu thuốc phiện trong những ngày vất vả vừa qua.




Lại nói Quang Tự từ khi bị cầm tù tại Doanh đài, trong lòng căm tức khôn nguôi, không có lúc nào phát tiết ra hết được Rồi đến khi liên quân tám nước kéo đại binh bức bách Bắc Kinh, thái hậu hoảng hốt bỏ chạy, Quang Tự hoàng đế được tin này, liền mặc triều phục chinh tề định đến sứ quán ngoại quốc. Tây thái hậu sợ quá, vội bảo nhà vua:




- Ngươi đi lúc này có khác chi nhảy vào miệng cọp không?




Quang Tự hoàng đế thản nhiên nói:




- Bọn họ vốn người nước văn minh, đối với các bậc vua chúa của các nước láng giềng họ quyết chẳng gia hại đâu mà ngại. Con đi chuyến này, nếu có bàn đến việc nghị hoà thì thế nào cũng thành công.




Tây thái hậu vội vàng ngăn trở:




- Ừ thì ngươi đi, nhưng lúc này đâu có phải là lúc đi! Lúc này mà ngươi đến sứ quán, thử hỏi có phải ngươi đến để nộp mạng, nhận tội không? Còn nếu nói tới để nghị hoà, thì thực chẳng có một lý do chi hết! Tại sao ngươi lại mạo hiểm vô ích như vậy?




Quang Tự hoàng đế không nghe, cương quyết ra đi. Tây thái hậu thấy vậy không còn cách nào hơn, chỉ đành đổ cho nhà vua quá hoảng hốt, thần kinh thác loạn, sai bọn nội giám dìu ngài lên xe, cưỡng bức lên đường chạy loạn. Về sau, khi đến Thái Nguyên, Tây thái hậu hạ lệnh tây tiến qua Tràng An, Quang Tự hoàng đế không chịu, lại một phen đấu khẩu kịch liệt. Giờ phút gay cấn này, Tây thái hậu lại chỉ còn cách đổ diệt cho ngài lên cơn điên, bức ngài đi theo. Trong khi xa giá tây hành, có ai biết được một ông vua còn trẻ vốn sẵn bầu máu nóng đành chịu khoanh tay trước sự cưỡng bách của một bà già tai quái, chỉ còn biết rỏ lệ ròng ròng để cho nguôi đôi phần uất hận?




Có người tiếc cho trường hợp này, ví thử Tây thái hậu để Quang Tự hoàng đế lai kinh, kịp thời chống đỡ, thì đâu đến nỗi bị ngoại nhân dày xéo tơi bời, nhục quốc, táng quyền.




Lại cũng có người cho rằng Đức Tông hèn kém hôn muội, cho nên mới để đất nước và nhân dân bị bao cảnh tang thương.




Nhưng lại cũng có kẻ cho đó là nhà Thanh đã đến hồi mạt vận không thể cưỡng lại lòng trời.




Vì bị bức bách như vậy cho nên từ sau khi xa giá Tây An trở về, Quang Tự hoàng đế thường u uất trong lòng, chẳng có lúc nào vui. Lời ăn tiếng nói, có nhiều khi phẫn kích, giận tức, khiến Tây thái hậu không thể nào lượng thứ được. Do đó, Tây thái hậu có dụng ý đổ cho nhà vua bị bệnh thần kinh và tìm mọi cách làm cho quần thần tin tưởng ở chuyện đó.




Một hôm, nhân có cô con gái lớn của Khánh vương tên là Nguyên Đại Nải Nải thường đến hầu hạ bên cạnh hoàng đế, thái hậu bèn ngầm bảo Quang Tự hoàng đế lấy hộp trang sức của nàng đem giấu đi. Ông vua ngây thơ này không hiểu dụng ý của Tây thái hậu cứ thực thà làm theo. Kịp đến khi Nguyên Đại Nải Nải tắm rửa xong, tìm không thấy cái hộp, nhìn quanh thấy hoàng đế giấu vào nơi nọ, liền hỏi để lấy lại Quang Tự hoàng đế không đưa lại mà còn nói:




- Đâu được! Cái hộp này, chính Thái hậu cho đấy. Làm sao lại dám trao cho kẻ khác được?




Nguyên Đại Nải Nải nghe nói vậy, đành thôi, nhưng khi yết kiến thái hậu, nàng bèn đem chuyện cái hộp ra nói, Tây thái hậu cười bảo:




- Đường đường là một vị hoàng đế mà đi ăn cắp cái hộp của người ta. Thế mà bảo hắn không điên thì là gì?




Sau khi câu chuyện này xảy ra, trong âm mưu hãm hại của thái hậu, tin đồn Quang Tự hoàng đế mắc bệnh điên loạn truyền đi càng ngày càng xa, và đã có nhiều người tin theo.




Mặc dù cũng không ít người vẫn biết, nhà vua bất quá chỉ vì rắp tâm hãm hại của Thái hậu mà chịu điều tiếng ấy.




Lại nói đến chuyện hoà đàm với hoà ước mười hai điều khoản. Trong đó có một điều ước: trừng phạt hết tất cả những tên đầu sỏ gây hoạ. Thế là Tây thái hậu phải đem thực hành ngay khi chưa hồi loan. Do đó, bà hạ chiếu từ Tây An: đem Tải Lan, Dục Hiền ra chính pháp. Đoan vương thì bắt đi lính thú mãi Tân Cương, Cương Nghị được tin này đã tự tử ngay khi còn trên đường đi Tây An. Ngoài ra, quá nửa bọn triều thần có dính dấp tới Nghĩa hoà đoàn đều bị cách chức.




Mọi việc giải quyết xong xuôi cả, lúc đó Tây thái hậu mới chuẩn bị hồi loan.




Hạ tuần tháng bảy năm Tân Sửu, Tây thái hậu sai quần thần đi quan sát các hành cung bên đông lộ cũng như những con đường xa giá đi ngang qua để sửa soạn hồi cung. Mặt khác, bà truyền dụ xuống các quan lại địa phương, phàm những nơi xa giá đi ngang, khỏi phải cung đốn, đón rước trọng thể, trái lại cần phải kiệm ước đến mức tối đa. Điều khuyến dụ lạ lùng này bất quá chỉ tại khi phong trần thái hậu đã cảm thấy nỗi cực khổ của dân, và đã có lòng thương xót.




Hôm hồi loan, tất cả những đường phố của thành Tây An đều được sơn quét màu vàng. Hai bên phố sá đều chăng đèn kết hoa, trông hết sức náo nhiệt. Tình hình lúc này nếu đem so sánh với tình cảnh thuở nọ thì quả một trời một vực.




Tây thái hậu lại truyền dụ cho kéo hết những bức màn che xe loan lên cao, để cho dân chúng tha hồ chiêm ngưỡng dung nhan của bà.




Ngay cái lúc xa giá chưa xuất thành, người ta đã thấy một toán lính có nhiệm vụ dẹp đường, tay cầm roi mây đi khắp các phố để càn quét bố ráp trước. Rồi sau đó, mới đến một toán ngựa đi tiền đạo, cứ một cặp rồi lại đến một cặp đi song song với nhau. Tiếp đến là bọn nội giám khăn vàng áo vàng và bọn quan lại mặc áo hoàng mã quải. Sau nữa là đám nội giám cưỡi ngựa. Bọn nội giám đi bộ, tay đều cầm cái lư hương, khói hương bốc lên nghi ngút. Trên đường đi, tứ bề vắng lặng, chim chóc bặt tăm. Những người tuỳ giá hai bên tả hữu, quá nửa là bọn vương công đại thần mặc xiêm vàng bằng lụa. Sau bọn này, có quân cấm vệ. Hết cấm vệ, thì đó là Quang Tự hoàng đế, với đoàn xe chở hoàng hậu, phi tần. Phía sau, trong cái kiệu vàng, đặt ngồi chú Đại A Kha, và rất nhiều thân vương theo hộ giá.




Xe loan của Tây thái hậu cần đến những ba mươi sáu người khiêng, tất cả đều mặc áo đoàn long quái tử, đi đứng hết sức chình tề nghiêm mật.




Đấy là tất cả những hành trang nghi vệ hôm hồi loan của Tây thái hậu. Quang cảnh thật vô cùng oai nghiêm. Ấy thế mà không ngờ giữa cái đám quân cảnh vệ hàng hàng lớp lớp đi đều ấy, một tên đại hán mình trần trùng trục xông ra, giơ cao hai cánh tay sắt nổi bắp cuồn cuộn của y lên, phóng thăng cặp giò bự như hai cái cột nhà lại trước xe loan của Tây thái hậu…

Hồi 168 Quỷ hiện trong cung cấm




Lại nói tên đại hán mình trần trùng trục, mặt vẽ đầy hoa hoét, hai tay giơ cao, múa may quay tít, xông thẳng đến trước mặt Tây thái hậu. Đám thị vệ đi bên lập tức đuổi bắt lấy, chém phắt một đao chết tốt.




Chuyện kỳ khôi này xảy ra, bọn đại thần đi theo hộ giá sợ rằng có thích khách âm mưu hành thích, tức tốc điều tra ngay lý lịch tên đại hán. Bọn quan lại địa phương sau một hồi chạy đôn chạy đáo quay về báo cáo cho biết tên đại hán nọ chỉ là một thằng điên ở vùng này chứ chẳng phải của đảng phái nào.




Xe loan đi ngang chỗ nào cũng vậy, đám phụ nữ dân gian đua nhau ra ngắm thánh dung, đều quỳ xuống hai bên đường để đón giá. Trong cái đám, đàn bà thôn dã ấy, Tây thái hậu nhìn thấy một người mặc áo vá quỳ đó, có vẻ hết sức cung kính, biết đó phải là một mệnh phụ, liền cấp cho một cái ngân bài gọi là ân thưởng.




Đoàn xa giá hồi loan cứ trật tự như thế mà đi về ngã Đông Quan. Khắp dọc đường, chỗ nào cung thấy có từng nhóm quan lại quỳ dài để đón rước thánh giá. Lính đi theo, để hộ giá, ngoài toán của Mã Ngọc Côn hơn năm trăm người có từ trước ra, lúc này còn có các toán của Lộc Truyền Lâm, của Tống Khánh Hoà.




Khi đi qua Thái Nguyên, Quang Tự hoàng đế sai người ban phát cho những đền miếu địa phương nơi đóng quân, mỗi nơi một tấm biển. Lúc đó, Nam thư phòng cung phụng chỉ có một mình Lục Nhuận Tường. Ấy thế mà chỉ trong một buổi, hơn bảy chục nơi đền miếu đều có đầy đủ biển treo. Quang Tự hoàng đế khen Tường mấy câu, còn cho thêm một trăm tấm vải để gọi là ân thưởng.




Trong lúc Tây thái hậu còn ở Tây An, có một đứa con trai của tên hầu cận Vinh Tân, thường hay lui tới chỗ thái hậu, rất được bà yêu mến. Vinh Tân có một người thiếp yêu, lúc đó cung đến hầu hạ Tây thái hậu. Bởi thế, con trai của Tân cung được đem theo vào.




Đứa bé năm đó, tuổi vừa lên bốn, nhưng hết sức thông minh, Tây thái hậu cho nó ăn, nó không lấy ngay. Trước hết, nó chắp tay kính cẩn hành lễ, xong mới dám lấy. Do đó, Tây thái hậu thường cho gọi nó vào chạy nhảy bên cạnh, để cho khung cảnh thêm vui. Về sau, khi Tây thái hậu hồi loan, thằng bé bỗng dưng quay ra chết. Tây thái hậu buồn bã, chẳng lúc nào vui. Có lẽ cũng mất đến bốn, năm hôm, bà mới nguôi đi được.




Xa giá của Tây thái hậu đến Đại Đồng, tuần phủ tỉnh Sơn Tây là Ân Minh đã chuẩn bị sẵn cho bà cả một chuyến xe lửa. Trên xe có đặt ngai vàng, thêu long phụng đủ màu sắc sặc sỡ. Tây thái hậu leo lên xe lửa, quay lại nhìn đám vương công, đại thần, bất giác nở nụ cười trên môi, nói:




- Bọn ta còn cái ngày hôm nay nhỉ?




Nói đoạn, ngài nguýt Quang Tự hoàng đế một cái thật dài, trong khi đó, hoàng đế cúi đầu thấp xuống, giả tảng như không thấy gì. Chuyến xe lửa khởi hành, thẳng một mạch về hướng Bắc Kinh…




Chẳng bao lâu, xe lửa đã về tới kinh thành. Ra ngoài thành đón rước, đã có đầy đủ bọn đại thần văn võ người Mãn cũng như người Hán, lại còn có cả bọn công sứ của các nước Tây dương nữa. Bọn công sứ này thấy Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế xuống xe, đều bỏ mũ chào cung kính.




Tây thái hậu chỉ nhìn qua từng người rồi se sẽ gật đầu, xong lên xe loan chạy thẳng vào thành để về cung.




Thế rồi lúc trở về đến cung, bà buồn rầu khi thấy quang cảnh điêu tàn: đồ đạc bừa bãi ngổn ngang, những đồ quý, của báu trang hoàng khắp nơi, cái thì mất, cái thì vỡ tan tành.




Một nơi cung đình lộng lẫy như thế mà nay hoang lương như một bãi tha ma. Tây thái hậu đứng trước cái cảnh đổ nát này, chỉ còn biết rơi đôi dòng lệ xót xa mà thôi.




Nhưng từ sau cuộc hồi loan, đầu óc của Tây thái hậu cũng biến đổi dần. Lúc đó, Thuần thân vương Tải Phong đi sứ qua nước Đức trở về, cũng đề cao cái văn minh của ngoại bang.




Tây thái hậu thấy đại thể đã biến, không thực lòng cải cách quyết không xong. Do đó, bà cho phục lại tước cho tất cả bọn quan lại bị chết oan vì vụ Nghĩa hoà đoàn, và cho vào trong miếu Hiền Lương để hưởng cúng tế. Đối với Trân Phi, bà cũng cho vớt xác từ đáy giếng lên, lấy lễ quý phi an táng. Mặt khác bà hạ chiếu thực hành tân chính. Phàm những điều mà ngày trước bọn Khang, Lương điều trần như: bỏ khoa cử kiểu cũ, mở trường học, không được tán thành, thì nay lại đem ra cố thực hiện cho bằng được.




Nhưng từ khi cung nội trải qua một cuộc biến lớn, bao nhiêu bảo vật mất sạch, kẻ hầu người hạ cũng chẳng còn được mấy người. Cây bút hội hoạ trứ danh của bà Giao Tố Quân cũng bị bệnh chết tử lâu. Cô em gái Lý Liên Anh cũng đã ra đi lấy chồng. Bà phúc tấn vợ Đoan vương, nhân vì vương bị đày làm lính thú, trở thành vợ của kẻ tội thần nên bất tiện vào chầu. Thế là ngày nay, bà chỉ còn lại có môi một mình Thọ Xương công chúa ở bên cạnh mà thôi. Bởi thế, bà cảm thấy hiu quạnh, vắng vẻ và vô cùng cô độc.




Thấy hoàn cảnh ấy của Tây thái hậu, Khánh vương bèn cho phúc tấn của mình đem theo cô con gái tên là Trân Châu vào hầu. Tây thái hậu thấy Trân Châu lanh lẹ đáng yêu, liền giữ lại trong cung. Nàng Trân Châu vốn đã du học sang Nhật nên vào những lúc nhàn rỗi, thường giảng giải cho Thái hậu nghe về nghề nuôi tằm của chị em phụ nữ Nhật. Nàng kể rằng: Đám chị em phụ nữ Nhật này qua Trung Quốc học nghề nuôi tằm. Khi học thành tài rồi, họ còn học thêm cách trồng dâu nữa. Họ quyết định nuôi tằm lấy cho mình. Do đó, nghề trồng dâu nuôi tằm đối với Nhật đã là một môn thực nghiệp được liệt vào trong nông học, và được coi trọng hết sức Chỉ tiếc có mỗi một điều là khí hậu tại Nhật Bản không thích hợp thành thử nghề này không phát đạt được. Tây thái hậu nghe nói vậy nổi tánh hiếu kỳ liền bảo Trân Châu:




- Xưa nay, các bậc đế hậu cũng có nhiều người nuôi tằm dệt vải. Bọn mình e làm không nổi chăng?




Nói đoạn Tây thái hậu lập tức truyền dụ chọn hai mươi người phụ nữ xinh xắn trong dân gian tại miền Giang Nam để đưa vào Đại nội nuôi tằm. Bà cũng truyền lệnh cho các miền dân giã phải chiết cành dâu đưa vào trong cung cho bọn nội giám trồng.




Tây thái hậu cho làm một khu nhà riêng để cho bọn đàn bà ở lại nuôi tằm. Thế rồi, tằm làm tổ, quậy kén. Bọn đàn bà ươm tơ kéo sợi, mua khung cửi, đem về dệt lụa. Tiếng khung cửi rầm rập, tiếng thoi đưa sột soạt, vang dậy khắp cung nội. Cái người điều khiển bọn thợ dệt này cũng chính là Tây thái hậu.




Phải cái đám đàn bà này phần lớn đều có chồng con. Bởi vậy, Tây thái hậu cũng lượng tình cho họ, cứ mỗi năm cho về nhà một lần. Còn những lúc ngày thường ở trong cung, họ cũng được thái hậu ban thưởng hết sức hậu hĩ. Cứ hễ người nào dệt xong tấm lụa, bà lại thưởng cho bốn lạng bạc, dệt xong được một cuộn lụa thật dài bà thưởng mười lạng.




Mỗi khi gặp chính mùa tằm, bà còn thưởng thêm cho mỗi người hai mươi lạng bạc nữa. Những buổi diễn tuồng ở trong cung, bà cũng cho họ tới xem. Cái đám phụ nữ nhà quê này được ân sủng đến thế, kể cũng là chuyện lạ, xưa nay chưa từng có, nhất là đối với Tây thái hậu, một con người ráo riết, tàn ác, khinh người. Bởi thế, đám đàn bà nhà quê ra vào nơi cung cấm tự do này bỗng nhiên sáng giá, khiến chẳng một ai dám đựng tới họ.




Có một lần, giữa lúc nghề tằm đang vượng, bọn đàn bà Giang Nam chuẩn bị lên kinh để cung chức. Chiếu lệ thường thì trước khi lên đường, quan lại địa phương phải đến tiễn đưa họ đi. Trong đám, có một người đàn bà không chịu nghe lời dặn của bọn quan lại địa phương, cho nên viên tri huyện liền sai nha dịch đuổi về. Chẳng ngờ người đàn bà nhà quê này dám nổi xung lên mà bảo:




- Ta ở trong cung của thái hậu, đã từng được gặp biết bao nhiêu là quan to quan nhỏ, có lẽ nào ta lại sợ một tri huyện quèn như ngươi?




Nói đoạn, mụ nhà quê này tính nhảy lên giáng cho viên tri huyện nọ cái tát. May nhờ lúc đó có mấy người đồng bọn khuyên can, mụ ta mới chịu thôi mà ra về.




Viên tri huyện tức quá, xoá tên bà thợ dệt lếu láo ấy, nhưng không ngờ khi tới kinh, thái hậu thấy thiếu mất một người liền hỏi, hậu quả tất nhiên vô cùng thê thảm cho viên tri huyện nọ.




Số là khi được Tây thái hậu hỏi tới, bọn họ tố cáo ngay viên tri huyện nọ, nào là kiếm chuyện để ăn tiền, nào là gây khó dễ hách dịch, khiến người đàn bà nọ không thể lên được kinh. Tây thái hậu lập tức truyền dụ xuống Giang Nam, gọi đích danh bà ta, viên tri huyện chẳng còn biết làm sao hơn, đành phải tới nhà gọi, rồi làm đủ giấy tờ cần thiết để cho bà đi. Nhưng chuyện đâu có dễ như vậy? Khi lên đường, bà thợ dệt chỉ thẳng vào mặt viên tri huyện, chửi bới xỉa xói một hồi đã đời rồi mới chịu ra đi cho.




Trong cung nội, tử sau khi Tây thái hậu xa giá hồi loan, thường xảy ra nhiều chuyện quái dị. Có khi người ta thấy cái ghế tự nhiên ở chỗ này chuyển qua chỗ nọ. Cũng có khi người ta nghe tiếng dép đi lẹt xẹt từ phòng này sang phòng khác.




Chạy ra xem thì chẳng thấy gì. Nhưng khi bỏ đi chỗ khác, lại thấy tiếng dép ấy ở trong phòng, nghe rõ mồn một. Những chuyện quái dị này càng ngày càng nhiều, lâu dần càng thấy khủng khiếp, quái lạ hơn. Có tối người ta thấy quỷ hiện hình hoặc ma đùa cợt nữa.




Bọn cung nữ trong cung còn thấy cả Trân phi diễu qua diễu lại khắp nơi. Nhưng khi chạy lại gần xem thì lại chẳng thấy gì. Tin ghê khiếp này càng ngày càng đồn đại đi khắp hoàng cung. Đến tai Tây thái hậu, mới đầu bà không tin. Nhưng có một lần, chính Tây thái hậu cũng thấy. Lúc đó, bà mới vội vàng hội họp nội thần bàn cách phụ ma bắt tà, làm ma làm chay một phen để đuổi cho bằng hết oan hồn ma quái. Quan Thị lang Dụ Côn đề nghị mời sư sãi Lạt ma để lo việc này.

Hồi 169 Chiếc áo da rái cá




Vì chính mắt mình đã nhìn thấy ma quỷ hiện hồn trong cung cấm, Tây thái hậu liền truyền lệnh tập hợp binh sư Lạt ma vào cung, lập đàn chay cúng giải. Thế là ngày đêm chiêng trống vang rền, nơi cung cấm yên tĩnh bỗng trở thành một ngôi chùa miếu. Chuẩn bị mãi mấy ngày gần xong, sư Lạt ma tâu lên Tây thái hậu viện bắt đầu bắt quỷ trừ tà.




Bắt quỷ trừ ma thực là cả một thoại kịch thú vị vốn đã từng có trong cung Ung Hoà. Chuyện xảy ra như thế này.




Dùng một tên Lạt ma nhỏ tuổi, cho mặc áo trắng, đầu đội mũ trắng, mặt bôi năm sắc nham nhở, rồi cho nằm nép tại một nơi kín đáo bí mật trong cung. Vị Đại Lạt ma tụng kinh làm phép ở trên đài, bỗng đèn đóm tắt ngủm, rồi một tiếng rống lên ghê rợn… Tên tiểu Lạt ma giả làm quỷ sống khi nãy tức tốc từ trong chỗ núp xông ra. Bọn Lạt ma khác đứng chực sẵn chung quanh, tay cầm lăm lăm những thanh tre dài, khi nghe Đại Lạt ma quát rầm mấy tiếng, lập tức xông tới gần tên tiểu Lạt ma, dùng thanh tre phang vào người, vào đầu tới tấp. Con ma (tức là tên tiểu Lạt ma cải trang bị đánh co cẳng chạy lung tung tìm cách trốn thoát, cả bọn Lạt Ma cứ thế đánh đuổi, ma chạy trước, sư chạy sau, gây thành một đám đông hỗn loạn hết sức tức cười. Ma cứ chạy mà sư cứ theo mãi ra khỏi cung môn, theo mãi đến khi không thấy nữa mới quay trở về. Ma đã chạy rồi, lúc đó ai cũng yên chí rằng không còn ma quỷ tà yêu gì nữa, đèn đuốc lại đốt lên sáng choang.




Nhưng lần bắt quỷ trừ ma này vì được tâu lên thái hậu biết trước, nên làm quỷ đều phải là bọn thái giám đảm trách.




Đến lúc đuổi quỷ, tất cả bọn cung nữ phì tần trong cung đều phải tham gia. Cô nào cô nấy đều cầm thanh tre, đứng chực sẵn để "lâm trận".




Từ trên đàn cao, vị Đại Lạt ma niệm thần chú, bắt ấn bắt quyết xong, miệng rống lên một tiếng lớn: "Đuổi quỷ".




Tức thì, bọn cung nữ tay múa chân nhảy xông tới đuổi đánh bọn thái giám giả làm lũ quỷ vừa từ trong các ngõ kẹt xông ra. Bọn quỷ bị đuổi đánh ôm đầu chạy tứ tung, nhảy qua tường, xuyên qua rãnh, luồn hết cung này chui sang điện nọ, chẳng một nơi nào là không băng qua, nhất là những nơi có ma quỷ hiện hồn trước đây.




Bọn thái giám giả làm quỷ chạy như điên, còn bọn cung nữ được đuổi đánh thì miệng cười như nắc nẻ, tay múa những thanh tre như múa gươm giáng thẳng cánh vào đầu mấy tên thái giám đôm đốp. Nhiều tên bị u đầu rát tai, hoặc tay chân rớm máu, chỉ trong nháy mắt quang cảnh đã trở thành hỗn độn tùm lum, y như một đám giặc.




Tây thái hậu, hoàng thượng và hoàng hậu, Cẩn phi hôm đó đều tới đàn chay xem đuổi quỷ bắt ma. Thấy quang cảnh hỗn độn như vậy, nín không được cũng phá lên cười ngặt nghẽo.




Bọn cung nữ đuổi lũ quỷ giả chạy một mạch tới mãi một cái ao nước đã chuẩn bị trước. Tới đây, lũ thái giám giả quỷ co cẳng nhảy ùm hết xuống, lấy hai tay vội vàng rửa mặt cho hết những mực phấn tô lên. Đến lúc này tức là đã coi như đuổi hết quỷ rồi vậy, quỷ nhảy xuống ao theo Long vương Hà bá mất tăm rồi.




Chuyện đuổi quỷ trừ tà nực cười như vậy đấy, thế mà cũng lạ, từ đó về sau quả nhiên được yên ổn, không còn thấy ma quái hiện hồn phá quấy, doạ nạt nữa. Bởi thế việc này dần dần trở thành một tập quán, cứ đến cái mùa ấy là trong cung lại tổ chức một buổi lễ cúng kiếng rồi bắt ma trừ tà ầm ỹ như vừa kể.




Ta hãy quay lại chuyện vua Quang Tự… Từ khi xa giá hồi loan về cung, Tây thái hậu nhìn Quang Tự hoàng đế như một cái đinh trong mắt. Bởi vì Quang Tự, khi dùng Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu để thi hành việc cải cách chế độ cũ của nhà Thanh đã quá mục nát, liền bị Tây thái hậu ngăn chặn, đồng thời bắt gọn cả bọn tân chính chư thần vào trong một mẻ lưới. Đó là cuộc chính biến Mậu Tuất (1898).




Dẹp xong, Tây thái hậu đích thân lâm triều buông rèm nghe chính. Đây là lần thứ ba Tây thái hậu quay lại nắm quyền chính và cũng là lần chót đưa nhà Thanh đến mạt vận, gây nên cuộc cách mạng năm Tân Hợi (1911).




Nhưng không ngờ sau đó, Tây thái hậu tin tưởng vào bọn đại thần gian ngoan như Đoan Vương, Cương Nghị, nhận lầm phải đường lối của bọn Nghĩa hoà đoàn khiến đến nỗi phải trốn chạy khổ sở. Trong cuộc trốn chạy ấy. Tây thái hậu phải tự nhận rằng mình đã chẳng làm gì hơn được Quang Tự hoàng đế nên đã đích thân thi hành tân chính để mong mang lại thái bình. Bởi thế, trong lòng bà, lúc nào cũng nơm nớp bực bội xấu hổ, và nhục nhã. Tất nhiên, tâm trạng ấy kéo dài sẽ đẩy thái hậu đến chỗ nghiệt ngã và hơn thế, thù hận Quang Tự hoàng đế.




Bà hạ lệnh cho bọn nội giám và thị vệ phải nghiêm phòng các cửa vào Doanh đài, nơi Quang Tự hoàng đế ở với người đẹp Cẩn phi. Sự nghiêm phòng gắt gao đến mức Quang Tự không khác chi kẻ bị giam cầm.




Đầu năm Canh Tý (1900), Tây thái hậu đặt đủ biện pháp để cô lập Doanh đài. Ở mặt trái Doanh đài, có một cái cầu, và một số thuyền bè túc trực tại hai bên bờ hồ. Chiếc cầu này xây bằng đá tảng, những lúc cần, có thể rút đoạn giữa cầu lên được để cắt lối đi. Ban ngày người ta buông cầu xuống để đi lại. Nhưng bây giờ, thái hậu đã lệnh rút cầu vĩnh viễn.




Thế là bất luận ngày hay đêm không còn ai có thể tự do ra vào Doanh đài nữa. Mỗi khi, mong ân được triệu bọn phi tần bắt buộc phải dùng thuyền nhỏ mới vào được. Hồi đó, bên cạnh Quang Tự hoàng đế, chỉ có vỏn vẹn Cẩn phi mà thôi. Bởi thế, những lúc đầu hôm sớm mai, bên hoa dưới nguyệt, Quang Tự hoàng đế đôi khi không khỏi thấy trơ trọi, cô đơn, tình thế của ông vua bị giam cầm, phế bỏ. Rồi ngài tưởng nhớ đến Trân phi, người đẹp lý tưởng của ngài mà lòng càng thêm ngao ngán, buồn bã. Bất giác ngài nấc lên thành tiếng.




Cẩn phi thấy vậy cũng chẳng ngăn được lệ sầu tuôn chảy. Hai người ôm nhau khóc lóc thảm thiết, thương mình và thương lẫn cho nhau.




Có một lần, giữa cơn mưa tuyết lạnh thấu xương, tuyết đóng trên đất bặng dầy tới năm thước, Tây thái hậu gọi một tên tiểu thái giám khâu một cái áo bằng da con rái cá rồi đem sang Doanh đài cho Quang Tự hoàng đế. Bà còn dặn thêm tên tiểu thái giám:




- Khi dâng chiếc áo cho hoàng thượng, ngươi tâu với ngài là vải do Lão Phật gia đích thân cho để cắt may vốn là vải bố, còn cúc áo thì bằng vàng. Cứ câu nói đó ngươi nói đi nói lại mãi chừng ba bốn lần, để xem hoàng thượng trả lời ra sao, rồi trở về bảo cho ta hay, nghe chưa?




Tên tiểu thái giám lãnh chỉ, dùng chiếc thuyền nhỏ bơi qua Doanh đài, dâng chiếc áo lên cho Quang Tự hoàng đế. Hắn y theo lời Tây thái hậu dặn, nhắc đi nhắc lại mãi câu nói trên.




Lúc đầu, Quang Tự hoàng đế tuy có nghe đấy nhưng cứ tảng lờ như không. Về sau, thấy tên tiểu thái giám cứ lải nhải mải, ngài không nhẫn nại được nữa, liền nổi khùng lên, quát:




- Ta biết rồi! Y chỉ của Thái hậu là bảo ta sau này chết bất đắc kỳ tử, có thế thôi. Hiện nay cái chết của ta chưa hợp thời Ta còn phải đợi ít lâu nữa chết mới hợp, nghe chưa? Thái hậu có ý mong cho ta chết đi, nhưng ta thấy cái chết của ta chưa có giá trị thì ta chưa chết. Ngươi về tâu với thái hậu đúng như lời ta vừa nói nghe chưa?




Tên tiểu thái giám thấy Quang Tự hoàng đế nổi cơn thịnh nộ, không dám nói năng gì thêm, vội hối hả quay về cung thái hậu. Cẩn phi lúc đó cũng có bên, biến sắc mặt, nói:




- Hoàng thượng nói vậy không sợ thái hậu giận sao?




Quang Tự bất giác nhếch mép cười ruồi đáp:




- Đã đến nước này, ta còn có sợ cái gì nữa chứ? Cùng lắm thì bà lão tàn ác cũng chỉ đối xử với ta như đối xử với bọn Túc Thuận mà thôi.




Cẩn phi nghe Quang Tự hoàng đế nói vậy, vội lấy mắt ra hiệu, nhưng đang lúc căm giận tràn hông, ngài đâu có còn giữ gìn ý tứ gì.




Sở dĩ có điều báo hiệu của Cẩn phi là vì hồi đó đã có con Hương Nhi tới đây để hầu hạ hoàng thượng. Cẩn phi biết đó là người của thái hậu cử đến dò xét. Và đó đâu phải là ả. Là hắn mới chính xác. Bởi hắn chính là Quản Cẩu An. Việc hắn hoá thành Hương Nhi cũng là cả một câu chuyện.




Như ta đã biết, Quản Cẩu An nhờ tên nội giám Lý Lục Lục tiến dẫn đã được thái hậu sung vào Như Ý quán rồi rất được Thái hậu sủng ái và tín cẩn. Ngay trước mặt bọn cung nữ và thái giám, mỗi khi gọi An vào yết kiến, bà đều gọi An là "con trai tao" (ngã nhi), có lúc bà lại gọi An là Hương Nhi.




Bởi thế tất cả cung nhân trong nội đều gọi hắn là Hương bối tử. An cũng có quyền hành khủng khiếp chẳng thua gì Hương vương thuở nọ.




Đắc thế đắc thời như vậy Hương Nhi ra vào nơi cung cấm chẳng còn kiêng kỵ gì cả, lại chuyên làm tai mắt cho Tây thái hậu, do thám bất cứ hành động nào của kẻ khác, đem về mách với bà.




Hương Nhi làm cái việc do thám một cách vô cùng đắc lực nên bất cứ một chuyện gì dù nhỏ nhặt vụn vặt đến đâu, Tây thái hậu đều biết hết, Cẩn phi đã rõ Hương Nhi là ai, làm việc gì nên thấy Quang Tự chẳng giữ gìn ý tứ gì cả, thì hất hoảng lắm.




Một lát sau, quả nhiên những lời Quang Tự nói đến tai Tây thái hậu. Tức khắc bà hạ chỉ cấm tất cả các đại thần không được tới Doanh đài để vấn an hoàng thượng nữa.




Sở dĩ có thêm việc cấm chấp này là vì từ trước tới nay, suốt trong thời gian Quang Tự hoàng đế bị giam cầm tại Doanh đài, bọn đại thần còn có quyền ra vào để vấn an, hoặc là bọn cương thần (bọn quan lại trấn giữ nơi biên cương) được phép vào bệ kiến. Thực ra, Thái hậu đã muốn cấm chấp từ lâu rồi, khi có chuyện Sầm Huyên từ Tây An vào Doanh đài.




Sầm Xuân Huyên chính là người đem quân cần vương phò giá Tây thái hậu chạy trốn lên Tây An. Do đó bà mới tán dương Huyên là người trung nghĩa, và hứa thưởng tứ sau này.




Khi xa giá hồi loan về Bắc Kinh rồi, Tây thái hậu giữ lời hứa thăng ngay Sầm Xuân Huyên lên làm Tổng đốc Tứ Xuyên.




Khi ra đi nhậm chức Huyên có xin vào bệ kiến Quang Tự hoàng đế trong Doanh đài. Quang Tự vừa nhìn thấy Huyên bỗng nước mắt giàn giụa chảy ướt cả đôi gò má. Chính giữa lúc ngài định dốc bầu tâm sự với Huyên thì Quản Cẩu An đột nhiên từ ngoài bước vào. Ngài biến hẳn sắc mặt, không nói nữa.




Sầm Xuân Huyên biết có điều khó nói, bèn thừa cơ thỉnh an rồi lặng lẽ lui ra. Tuy chưa có gì lộ ra nhưng với thái độ khả nghi của Quang Tự hoàng đế cũng như Sầm Xuân Huyên, Quản Cẩu An vốn quỷ quyệt, xảo trá, làm sao mà chẳng nghi ngờ. Tức khắc, An quay về cung tâu với Tây thái hậu. Được tin này, Tây thái hậu thấy cần phải đề phòng gấp, bà tính hạ ngay một đạo chi dụ xuống để cấm chỉ không cho bọn đại thần vào bệ kiến hoàng thượng, nhưng lại thấy có điều bất tiện cho Quản Cẩu An, nên đành phải từ từ đợi thời. Và đến bây giờ, lệnh đã được ban ra.




Doanh đài, thực ra chỉ là cái tên tổng quát của một cái điện gọi là Hàm Nguyên điện mà thôi. Kích thước của Hàm nguyên điện vỏn vẹn có ba gian nhà trệt, mỗi gian rộng chỉ hơn một trượng. Lùi về phía sau, có một cái lầu nhỏ. Đấy là tất cả cái khung cảnh của Doanh đài, được dùng làm nơi giam cầm ông vua chót của nhà Thanh, sau mười mấy đời vua gốc Mãn Châu vào thống trị Trung Quốc.




Có một hôm trời đã về chiều, Quang Tự hoàng đế cùng Cẩn phi ngồi đối diện nhìn nhau mà bồi hồi thổn thức. Không ai nói với ai nhưng cả hai đều nhận biết cái buồn của nhau.




Cuối cùng Quang Tự hoàng đế gượng đứng dậy thả bộ lên lầu Ngài phóng tầm mắt ra xa, đứng bất động như pho tượng.




Bỗng ngài thở dài đánh trượt một tiếng, rồi lững thững nện những bước chân nặng nề trên thang lầu để đi xuống…

Hồi 170 Cuộc phiêu lưu trong cung cấm




Nếu đứng ở Hàm Nguyên điện mà nhìn ra trước mặt, ta sẽ thấy điện Ỷ Hương, nơi cư ngụ của hoàng hậu, hoàng hậu tuy cũng có lúc sang điện Hàm Nguyên để chầu hoàng đế, nhưng buồn thay, Quang Tự hoàng đế lại không thích nói chuyện với bà. Nhất là từ khi bị giam cầm ở Doanh đài, Quang Tự chưa từng lần nào qua chơi bên điện Ỷ Hương. Bởi thế, giữa hoàng đế và hoàng hậu, bên ngoài thì có vẻ êm đẹp, nhưng thực ra bên trong lạnh nhạt, không còn tình nghĩa vợ chồng gì nữa. Hoàng hậu lại còn thấy hoàng đế sủng hạnh Cẩn phi, lòng bà thêm ghen tức, giận hờn không lúc nào nguôi…




Hoàng hậu Na Lạp thị vốn là cháu gái ruột của Tây thái hậu. Bà gả cho Quang Tự hoàng đế là có ý nhờ cái dây tình thân thiết ấy để lung lạc hoàng đế, nắm trọn quyền hành chính trị vào trong tay mình. Bởi thế khi chọn hoàng hậu, Tây thái hậu mới bảo Quang Tự cầm ngọc Như Ý trao cho cô cháu gái của bà. Theo tục lệ từ trước, thì mỗi khi hoàng đế sách phòng hậu, người ta phải xếp đặt cho các cô khuê nữ có đủ tư cách làm hoàng hậu, ngồi thành hàng trước điện. Sau đó hoàng đế mới tự mình chọn lựa lấy, hễ yêu ai thì trao ngay ngọc Như Ý cho người đó.




Quang Tự hoàng đế chi muốn chọn Trân phi nhưng phải cái Tây thái hậu đã định trước mọi việc, khiến ngài không thể nào trái lệnh được. Tuy vậy, khi đưa ngọc Như Ý cho hoàng hậu, ngài giả vờ lỡ tay đánh rớt xuống đất, khiến chiếc ngọc quý giá tốt đẹp như vậy mà vỡ tan thành những mảnh vụn.




Tây thái hậu thấy vậy, trong lòng rất không vừa ý. Cho đến sau ngày cưới, Quang Tự hoàng đế lại càng chán ngán bà hoàng hậu bất đắc dĩ này. Tây thái hậu biết Quang Tự hoàng đế sủng ái Trân phi, liền cho lập ngay hai chị em Trân phi và Cẩn phi làm phi tử để mong bắt được ông vua trẻ ham sắc phải phục tùng vì cái ơn trên của bà.




Trớ trêu thay, từ khi ôm được hai người đẹp Trân phi và Cẩn phi trong lòng rồi, thì cái của nợ hoàng hậu kia, Quang Tự hoàng đế càng không thèm để ý tới nữa. Mặt khác, hoàng hậu thấy mình là chánh cung mà không được sủng hạnh, trái lại mấy con phi tử lại được cái vinh dự bên vua, thì làm sao cho khỏi ghen tức. Chỉ còn cách ngày ngày sang cung Tây thái hậu tỷ tê, ỷ eo, khóc lóc cho bà nghe, may ra bà có tìm cho mình lối thoát? Chưa hết, hoàng hậu còn thừa dịp thuận lợi bắt chị em Trân, Cẩn hai phi đánh cho những trận đòn nên thân để trả thù.




Làm như thế, tuy có hả được đôi phần, nhưng hoàng hậu lại càng khiến hoàng thượng chán ghét hơn. Rồi tới cái chết tức tưởi của Trân phi, Quang Tự hoàn toàn đổ lên đầu hoàng hậu, cho bà là thủ phạm. Vì thế hai người tuy cùng ở trong Doanh đài, cách nhau chẳng bao xa, nhưng Quang Tự hoàng đế không bao giờ bén chân đến điện Ỷ Hương của hoàng hậu. Thậm chí còn không thèm nói chuyện với bà. Có một hôm, lòng buồn vô hạn, Quang Tự hoàng đế đứng tựa bên song cửa, lòng bồi hồi. Trong khi buồn bã đó, ngài nhân thấy mặt nước đã dần dần đóng thành băng. Bỗng ngài có ý nghĩ đợi cho băng đóng dày rồi bước lên trên mà băng qua hồ, sang bên kia.




Cẩn phi không chịu, vội khuyên ngăn:




- Băng nổi lềnh bềnh trên mặt nước, dưới không có gì là chắc vững. Giả thử khi bước lên trên, lỡ băng vỡ chẳng nguy hiểm lắm sao?




Nhưng Quang Tự hoàng đế nào có chịu nghe, ngài gọi một tên tiểu thái giám dắt, dò dẫm hết bước này qua bước khác, cứ thẳng trên mặt băng mà vượt sang phía bờ bên kia.




Tảng băng ở gần bờ thì cứng, có thể bước lên trên một cách vững vàng, nhưng càng ra ngoài, nước càng sâu, băng càng mỏng đi. Quang Tự hoàng đế bước tới giữa chừng, mới thấy nguy hiểm. Lúc này, ngài bắt đầu hối tiếc vì không nghe lời Cẩn phi. Ngài tính quay về, thì một chân của tên tiểu thái giám đã lọt hẳn xuống nước, rồi đến cả người cũng sắp sửa xuống luôn.




Tên thái giám ở phía trước mặt thấy vậy vội vàng chèo một chiếc thuyền con lại để vớt. Chỉ có vớt tên tiểu thái giám và đưa được Quang Tự hoàng đế lên được bờ, ấy thế mà cũng mất tiêu cả một buổi.




Trong khi đó, không ai ngờ là hoàng hậu đã nhìn thấy. Đó chính là lúc bà đang chải tóc và trang điểm. Thấy cảnh Quang Tự đi trên băng, bà vội chạy ra trước cửa sổ điện Y Hương nhìn xem. Bà nghĩ:




- Gần đây hoàng thượng bị bệnh thần kinh thác loạn, hành động thường có những điều lầm lẫn. Cẩn phi cũng đã biết chuyện đó, tại sao nàng lại không ngăn cản ngài? Vạn nhất có điều gì nguy hiểm cho ngài, thì đến ta đây cũng không khỏi mang tội.




Nghĩ thế, hoàng hậu liền vội vã trang điểm qua quýt cho xong, lấy một chiếc thuyền nhỏ, bơi qua bờ phía bên kia, chạy vội đi báo với Thái hậu.




Trong khi hoàng hậu đang lon ton chạy tới cung thái hậu, thì Quang Tự hoàng đế đã lên bờ và bảo tên tiểu thái giám chèo ngay thuyền về phía Doanh đài để đón Cẩn phi sang.




Đã qua được bờ bên kia, hai người dắt tay nhau đi dạo chơi một vòng khắp cả mọi nơi. Khi đi qua trước mặt điện Nhân Thọ, Quang Tự hoàng đế không khỏi thở dài nói:




- Ta còn nhớ năm đó, tại nơi đây, ta cùng sư phó ông Đồng Hoà thương nghị việc triều đình, rồi triệu kiến Khang Hữu Vy, nhưng không ngờ cũng tại nơi đây ta lại gặp thêm Viên Thế Khải để rồi ngay sau đó, ta không còn được bước chân tới nơi đây nữa! Nhớ lại quang cảnh hồi đó, ta thấy rõ mồn một, y như còn ở trước mặt. Nếu có khác với hiện tại chăng, chỉ là khác ở chỗ cảnh vật không còn như thuở xưa nữa. Càng nghĩ lại, càng nhớ lại, ta càng thấy thương tâm quá!




Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế đặt đôi mắt đau thương của mình vào cặp mắt chẳng kém phần buồn bã của Cẩn phi, để mong tìm lấy cho mình một nguồn an ủi, một ý nghĩ cảm thông trong nỗi khổ của mình.




- Bệ hạ đừng lo! Đó bất quá chỉ là trường hợp con giao long còn bị kẹt trong ao. Nhưng rồi đây, chỉ một sớm gặp được mây mưa, con giao long ấy sẽ bay lên đến tận mây xanh, kẻ nào đó, dù có ba đầu sáu tay cũng không thể nào cản ngăn được.




Quang Tự hoàng đế nghe Cấn phi nói, sẽ gật đầu tỏ vẻ ưng chịu, nhưng rồi lại thở dài nói tiếp:




- Đời sống được bao, tuổi xuân chóng hết. Kiếp sống của đôi ta thật chẳng bằng cuộc đời của kẻ dân giã tầm thường. Đời sống của họ thật là ung dung thong thả, phu xướng phụ tuỳ chẳng, có gì đau khổ lo âu, khanh có còn nhớ khi bọn ta ở Tây An không? Khanh há chẳng than hôm đó, có một đám nông dân vợ chồng hoà ấm, chồng cày vợ cấy, con cái đầy đàn đó sao? Gia đình họ ai dám nói là không hạnh phúc sung sướng? Bọn ta là đế vương phi hậu, nhưng bằng họ sao được? Phải đến lúc này, ta mới tin được lời nói Tự Tông nhà Minh là đúng: "Đời đời kiếp kiếp, xin đừng sinh vào gia đình đế vương". Đấy! Khanh đã cảm thấy cái nỗi đau lòng của Tự Tông và cũng là cha bọn ta chưa?




Y muốn của Quang Tự hoàng đế và Cẩn phi là đi du ngoạn khắp đó đây cho thoả lòng khao khát tự do bấy nay đã bị nỗi niềm tâm sự bỗng dưng nổi dậy dập tắt, khiến cả hai không còn chút hứng thú nào để đi thêm nữa. Bởi thế, Quang Tự hoàng đế bảo tên tiểu thái giám gọi chiếc thuyền con lại, và quay trở về Doanh đài.




Về đến Doanh đài, bốn bề tuyết phủ sương che, xa trông bát ngát. Quang Tự hoàng đế càng cảm thấy tình cảnh cô đơn đau xót của mình. Ngài truyền cho cung nữ dọn rượu, hầu mong quên đi những nỗi éo le của cuộc đời, những viễn cánh tương lai mà ngài biết không lấy gì làm sáng sủa lắm. Ngài nâng chén, cạn ly, Cẩn phi hầu bên cạnh liên tục rót rượu.




Ly này cạn, ly khác cạn, nhiều ly đã cạn hết, giữa khoảng không gian u tịch vắng vẻ tại Doanh đài.




Giữa lúc ấy, Quang Tự hoàng đế bỗng thấy trên mặt hồ có năm sáu chiếc thuyền con, bên trong ngồi bảy, tám tên nội giám, mỗi tên cầm một cái cuốc sắt, đang gắng sức chèo chống lại Quang Tự hoàng đế nhìn thấy cảnh tượng lạ kỳ này, cất tiếng hỏi Cẩn phi:




- Bọn chúng làm cái trò khỉ gì vậy?




Cẩn phi nghe hỏi, vội chạy ra cửa sổ, nhô đầu ra ngoài lên tiếng hỏi. Tức thì có tiếng trả lời vọng vào:




- Bọn nô tài vâng ý chỉ của Lão Phật gia tới đây cuốc băng ạ.




Cẩn phi nói lại cho Quang Tự hoàng đế nghe. Quang Tự cười nhạt:




- Hừ! Lão Phật gia bảo chúng tới cuốc băng nhất định là do chuyện bọn ta đã đi trên băng hồi nãy. Ta nghĩ rằng trong thiên hạ này, có bữa tiệc nào là chẳng đến lúc tàn? Tội gì mà phải bắt khoan bắt nhặt, ép lên buộc xuống mãi như vậy?




Quang Tự hoàng đế vừa nói với Cẩn phi vừa cất chén liên hồi. Sau khi cạn luôn mấy chén ngài chỉ sang điện Ỷ Hương phía bên kia, nghiến răng, dằn mạnh từng tiếng bảo:




- Câu chuyện này quyết lại do con mụ khốn nạn kia chạy đi ton hót với thái hậu đó thôi!




Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế cười bảo Cẩn phi:




- Nếu ta có dịp nắm lại quyền bính, ta quyết bắt cho bằng hết lũ hồ ly láo xược đó.




Cẩn phi vội xua tay nói nhỏ với ngài:




- Vách có tai, bệ hạ có sợ luỵ đến thần thiếp chăng?




Quang Tự hoàng đế nghe câu này lại càng nổi sùng hơn. Ngài cất tiếng nói lớn như quát vào mặt những tên chó săn của Tây thái hậu lẩn quất xung quanh.




- Sợ cái gì? Đứa nào dám tới đây bắt khanh làm nhục khanh? Em gái khanh đã bị chúng giết chết một cách oan uổng rồi. Chúng lại còn muốn tới đây để hãm hại khanh nữa sao? Ví thử nay mai chúng làm chuyện đó, ta sẽ chết cùng khanh. Chẳng lẽ dám giết cả ta?




Càng nói, Quang Tự hoàng đế càng hăng, ngài đã thấm rượu, và rượu đã bốc được cái máu điên của ngài lên rồi. Miệng ngài nói, tay ngài múa, cao đàm khoát luận có bao nhiêu uẩn khúc, lúc này ngài cho ra bằng hết.




Giữa lúc đó, hoàng hậu lại sang tìm Quang Tự hoàng đế. Thật là lửa được đổ thêm dầu, Quang Tự hoàng đế càng lồng lộn lên như hổ dữ. Từ lâu, ngài vốn đã không thèm trò chuyện, đối đáp bất cứ việc gì với hoàng hậu. Mỗi khi bà sang hầu, ngài để mặc bà ngồi đó, ngồi chán thì về. Tình nghĩa vợ chồng coi như không còn chút nào nữa. Nhưng lần này thì khác, khác là vì hôm nay Quang Tự hoàng đế có chén rượu đã ngấm, chất men đã bốc sặc lên. Vừa mới trông thấy hoàng hậu, ngài đã nổi máu hoả, chỉ muốn tát cho bà mấy chiếc. Nhưng ngài lại e lễ tiết, sợ dư luận. Bởi thế, ngài lập tâm hỏi ngắn hạch dài, trong khi hoàng hậu chẳng tiện chống báng, đành chỉ ầm ừ đối đáp vài ba câu cho qua.




Quang Tự hoàng đế hỏi mãi, hạch mãi mà chẳng tìm ra được một chỗ hở nào của hoàng hậu để quở mắng. Ngài đành quay lại gọi Cẩn phi rót rượu thêm rồi mời luôn cả hoàng hậu cùng uống. Đến lúc này, hoàng hậu không vâng theo cũng không được, nên nâng chén cố cạn. Bà miễn cưỡng cạn một chén. Nhưng hết chén này, Quang Tự hoàng đế lại bảo Cẩn phi rót thêm chén khác, ngài không muốn để cho hoàng hậu thôi ngang trong khi ngài đang có tửu hứng. Hoàng hậu vốn không biết uống rượu, đành phải nói lời thoái thác. Quang Tự hoàng đế nhân lúc tửu hứng, đổi sắc mặt, bảo hoàng hậu:




- Tửu lượng của bà kém, không uống được nữa, phải không? Năm nọ, trên tiệc rượu vạn thọ của Thái hậu, bà đã chẳng cạn luôn một hơi trăm chén là gì?




Cẩn phi đứng bên cạnh, thấy Quang Tự hoàng đế mặt đầy giận dữ, biết chắc thế nào cũng có chuyện chẳng lành, vội cất tiếng nói:




- Ngự tửu ban xuống, kẻ cung nhân xin được uống thay!




Quang Tự hoàng đế cười nhạt nói:




- Không! Không được…! Chính mắt ta phải thấy bà ta uống. Ngươi thay để làm gì?




Nói đoạn Quang Tự hoàng đế khỏi nói thêm, cầm cả chén rượu đưa lên môi hoàng hậu, một tay ôm ngang lấy người bà đè ngửa ra, dùng sức đổ đại cả chén rượu vào miệng, buộc phải nuốt xuống ừng ực.




Nào ngờ tửu lượng của hoàng hậu quả có kém thực. Chỉ một chén rượu đó thôi đủ để cho bà thấy đầu choáng mắt hoa, tấm thân không còn tự chủ được mấy nữa. Bà thấy hoàng đế cố ép mình uống nữa, bèn giơ tay cản lại, không ngờ chiếc chén ngọc bị tung lên trên không, rớt xuống sàn gạch vỡ tan tành.




Quang Tự hoàng đế chạm tự ái, ngài nổi giận lôi đình quát lớn:




- Cho ngươi uống rượu, đó là do hảo ý của ta. Tại sao ngươi lại hất chén đi? Ngươi đã không muốn uống thì ta đây phải cho ngươi uống thêm vài chén nữa mới được.




Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế lại gọi Cẩn phi rót thêm một chén rượu lớn hơn. Giữa lúc Cẩn phi tiến thoái lưỡng nan, thì bỗng đánh vút một cái, hoàng hậu đã đứng vùng dậy, cất bước chạy ra phía ngoài, chân lảo đảo, đầu lắc lư, chỉ muốn té.




Thấy hoàng hậu như vậy, Quang Tự hoàng đế sợ rằng bà đem chuyện tố cáo với Tây thái hậu, cho rằng ngài cố ý làm nhục bà, ngài cũng chạy theo sát gót, mong níu hoàng hậu lại Nhưng ngài không biết rằng ngài đã quá chén, chân đã mềm ra như bún, không còn thể nào đứng vững được nữa. Ngài vừa đứng lên thì thân hình lắc lư như muốn té ra sau.




Cẩn phi giật mình, vội sấn lại, giơ hai tay ôm ngang lấy lưng ngài, trong khi đó Quang Tự hoàng đế đã đưa tay phải ra quơ được tà áo của hoàng hậu ở phía trước, khiến bà bị trì lại, xuýt nữa cũng té nốt.




Thực ra thì Quang Tự hoàng đế nghi oan điều này cho hoàng hậu, chứ thực lúc đó hoàng hậu vì tửu lượng kém, đầu đã choáng mắt đã hoa, chỉ muốn quay về nằm nghỉ, đâu nghĩ tới chuyện đi đâu. Quang Tự hoàng đế đã hiểu lầm điềm này, khiến xảy ra quang cảnh xô đi đẩy lại, và thân hình hoàng hậu mới nghiêng bên này, ngả bên kia, cuối cùng chúi đầu luôn xuống đất. Bỗng một vật gì óng ánh sáng đẹp từ trên đầu hoàng hậu văng ra. Cẩn phi nhanh mắt nhìn thấy, vội giơ hai tay ra đỡ nhưng không kịp. Một tiếng "đốp" vang lên trên sàn gạch. Vật đó đã vỡ tan.




Hoàng hậu quay lại nhìn thấy, cả kinh vội nói:




- Chết tôi rồi! Bảo vật ngự tứ (nhà vua thưởng) vỡ mất rồi!




Quang Tự hoàng đế nghe nói quay lại nhìn, thấy Cẩn phi đang củi xuống đất lượm chiếc bảo vật nọ. Ngài xem kỹ lại thì ra bảo vật nọ đã bị gãy làm đôi. Lòng ngài bỗng có điều gì sợ hãi dâng lên, mặt dần dần tái đi, báo hiệu một sự gì nguy biến khủng khiếp sắp xảy ra cho ngài và có thể cho nhiều người khác nữa.

Hồi 171 Phấn đổ hương rơi




Chiếc trâm bằng ngọc thạch của hoàng hậu vốn từ đời Cao Tông truyền lại. Trâm dài chừng bốn tấc trong sáng long lanh không có chút tì vết nào, đúng là một bảo vật. Khi kết hôn, Quang Tự hoàng đế được Tây thái hậu giao cho để trao lại cho hoàng hậu. Cho nên chiếc trâm còn là một bảo vật truyền gia. Nay lỡ không may chiếc trâm rớt gãy, hoàng hậu hoảng hốt, cuống quýt lên, chỉ còn biết rơi lệ chứa chan và kể lể:




- Cành trâm đó vốn là di vật của tổ tông, mà Lão Phật gia đã cho trước đây. Nay hoàng thượng đánh gãy mất, bảo tiện thiếp ăn nói làm sao với Lão Phật gia chứ?




Long Dụ hoàng hậu nói đến đây, khóc nức nở. Cẩn phi biết rằng chuyện này xảy ra to rồi, cho nên nàng một mặt khuyên nhủ hoàng hậu một mặt giúp hoàng đế thu xếp. Hoàng hậu khóc một hồi rồi gạt lệ nói:




- Còn nói gì được bây giờ? Trâm đã gãy rồi! Tội này thì hoàng thượng phải hoàn toàn chịu lấy! Chỉ còn cách đưa nhau lên gặp Lão Phật gia phân xử cho thôi.




Quang Tự hoàng đế lúc đầu có đôi chút hối hận vì đã lỡ tay làm gãy chiếc trâm, nhưng đến khi nghe hoàng hậu nói, kéo nhau lên thưa gửi Tây thái hậu, thì máu hoả lại bốc lên ngùn ngụt. Ngài nổi giận nói lớn:




- Lúc nào cũng chỉ lo có chiếc trâm. Ừ, thì chính ta làm gãy đấy, làm đếch gì thì làm? Cứ hễ mở mồm ra là y như ngươi đem Tây thái hậu ra để cho ta sợ phải không?




Nói đoạn, Quang Tự hoàng đế mắm môi nghiến răng, cất cao chân phải lên rồi dậm mạnh một cái xuống chiếc trâm gãy nằm trên mặt đất và nói tiếp:




- Ngươi đi tố cáo với thái hậu đi, bảo ta cố ý làm gãy đấy! Để xem làm gì ta thì làm.




Trong lúc nói những câu này, Quang Tự hoàng đế tỏ ra vô cùng tức giận. Hoàng hậu thấy hoàng đế nổi giận, cũng không dám nói gì thêm nữa, chỉ đành lau mắt lệ, rồi gọi tên tiểu thái giám lấy đò chở bà sang phía bờ bên kia gặp thái hậu.




Sau khi hoàng hậu đi đã một lúc, Quang Tự hoàng đế vẫn còn chưa nguôi cơn giận. Cẩn phi tìm lời an ủi và khuyên giải:




- Hoàng hậu đi chuyến này, chẳng biết có thêm bớt điều gì nữa không?




Quang Tự hoàng đế vẫn thái độ tức tối như trước nói:




- Mặc thây bọn chúng! Bọn chúng muốn làm gì thì làm, ta đâu có sợ.




Đêm hôm đó yên ổn, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng qua ngày hôm sau, Tây thái hậu cho thái giám đến triệu hoàng đế. Cẩn phi biết ngay chuyện hôm qua đã xảy to rồi. Nàng rỉ tai Quang Tự hoàng đế:




- Thái hậu tuyên triệu hoàng thượng quyết không có chuyện tốt đẹp đâu. Nguyên do chiếc trâm gãy gây ra. Lúc gặp Thái hậu, ngài nên để mặc bà nói, đừng có gây gổ, tranh luận gì như hôm qua, kẻo thái hậu trách mắng, liên luỵ cả đến thần thiếp đó.




Quang Tự hoàng đế gật đầu mấy cái, tỏ ý nghe theo, trong lòng nhớ đến câu chuyện hôm qua mà sợ. Sợ vì hôm nay ngài tỉnh rượu rồi.




Tây thái hậu chờ cho Quang Tự hoàng đế làm lễ xong, lúc đó mới lên tiếng:




- Ngươi là vua của một nước, mà hành vi xem ra không bằng thằng dân. Ngươi say rượu đến nỗi đánh cả hoàng hậu, hung dữ lồng lộn như một con thú dữ. Hành động như thế, phải chăng ngươi tỏ ý chống ta? Ta đem cháu gái ta gả cho ngươi là mong tạo hạnh phúc cho ngươi. Ta không ngờ kết quả đều ngược lại cả. Ví thử hoàng hậu có nhiều điều sai lầm tội lỗi đối với ngươi thì ngươi cứ nói rõ ra, bố cáo cho toàn thể thiên hạ biết, rồi đem phế thẳng đi, hà tất phải làm như vậy? Nếu ngươi không muốn làm như thế, ngươi để ta làm giùm cho. Ta phế ngay hoàng hậu giúp cho ngươi. Ngươi chỉ việc kê khai hết những tội lỗi của vợ ngươi ra đây, đừng có giấu giếm một điều nào là ta giúp cho ngươi hết mọi tức bực ngay.




Quang Tự hoàng đế nghe nói đến đây, vội vàng dập đầu tâu:




- Nhi thần quả không có nói là hoàng hậu có điều sai lầm nào. Hôm qua, chỉ vì quá chén nên say, thành thử xảy ra chuyện chẳng hay đó thôi. Nhi thần xin cải quá từ đây, lần sau không bao giờ dám có những hành động như vậy nữa. Kính xin Lão Phật gia rộng lòng thương mà tha thứ cho nhi thần lần này.




Tây thái hậu cười nhạt bảo:




- Rượu say nên mất khôn ? Quốc gia đại sự mà cũng cứ rượu say mất khôn như vậy thì mấy chốc mà đất nước đi đứt? Ta biết tính ngươi vốn trung hậu quyết không đến nỗi vô lại du côn đến thế. Đây chắc chỉ tại cái con hồ ly chín đuôi nọ nay ton hót mai ton hót cho nên mới có chuyện. Ta phải cho nó một trận biết thân, để sau này hết ton hết hót.




Tây thái hậu nói đoạn, quay đầu lại truyền cho gọi Cẩn phi tới. Chẳng bao lâu, Cẩn phi mặt mũi đầy lệ, theo chân một tên thái giám đến quỳ trước Tây thái hậu. Tây thái hậu quát hỏi:




- Hôm qua, lúc hoàng thượng và hoàng hậu gây lộn, mi có mặt ở đấy không?




Cẩn phi vội cúi thấp mình xuống đến sát mặt đất, tâu:




- Dạ! Tỳ tử có mặt ở ngay bên, và đã cố khuyên giải.




Tây thái hậu nổi giận nói:




- Đã đến đây mà mi còn leo lẻo cái mồm phải không? Nếu mi có khuyên giải thì làm sao lại xảy ra chuyện?




Cẩn phi bị cật vấn, hoảng hồn vội dập đầu tâu:




- Tỳ tử đâu có dám thế!




Tây thái hậu không đợi cho nàng nói thêm, giơ thẳng tay nện xuống mặt bàn đến thình một cái, quát lớn hơn, khiến Cẩn phi giật bắn mình lên, mặt xám ngoét lại:




- Cấm cãi! Con khốn nạn kia! Kéo cổ nó ra đánh bốn mươi gậy cho ta!




Quang Tự hoàng đế thấy nguy quá, vội chạy ra xin cho Cẩn phi:




- Kính xin Lão Phật gia mở rộng lòng thương mà xét cho. Việc này do nhi thần gây ra cả. Mong Lão Phật gia ân từ mà tha cho nàng.




Tây thái hậu nói:




- Hừ! Cứ mỗi lần trách phạt là mỗi lần ngươi năn nỉ cầu xin để che chở cho con khốn nạn. Ấy chính vì thế mà nó càng làm tàng, chẳng những không coi hoàng hậu ra cái gì, mà đến ngay ta đây nó cũng xem thường luôn! Hôm nay ta quyết không thể tha cho nó được. Nội giám đâu? Lãnh chỉ rồi kéo ngay con khốn nạn ra ngoài kia đi cho rảnh mắt ta.




Đáng thương cho Cẩn phi đã đành, nhưng cũng đáng thương cho Quang Tự hoàng đế, không có cách gì cứu được người yêu.




Lòng đau như cắt, hôm qua lại quá chén nên say, Quang Tự hoàng đế có lẽ không còn đủ sức để chống lại với cơn khủng hoảng tâm hồn quá kịch liệt này, cho nên ngài cảm thấy mặt hoa đầu choáng, chỉ chực muốn té.




- Ngươi nên bảo trọng tấm thân một chút mới được, ngươi cần biết là ta chỉ còn như ngọn đèn trước gió đó thôi. Trách nhiệm tương lai, há lại không phải ngươi gánh vác đấy sao? Lâu nay, ta vẫn biết ngươi tự bạo, tự khi quá nhiều, chứ không còn biết giữ gìn cẩn thận như xưa, đó là điều đáng tiếc cho ngươi đó.




Một mặt nói vậy, một mặt Tây thái hậu giả bộ nhỏ mấy giọt nước mắt. Bỗng bà thấy Quang Tự hoàng đế như có gì mắc trong họng, không phun ra được, rồi chỉ trong một phút, oẹ lên một tiếng lớn, khạc ra một bụm máu tươi, bắn thẳng ra trước mặt xa đến vài thước, dây be bét cả lên chiếc áo mới của bà.




Tây thái hậu nhìn kỹ lại, thấy đúng là máu, bà giật nảy mình, lòng vô cùng sợ hãi, vội nói:




- Bệnh ngươi đã quá nặng. Gọi ngay thái y vào chữa trị đi.




Bọn thái giám nghe nói vậy vội ba chân bốn cẳng chạy đi triệu thái y, trong khi Tây thái hậu tựa cho Quang Tự hoàng đế ngủ yên trên giường được một lúc.




Chẳng mấy chốc, thái y xách dao cầu, thuyền thuốc tới. Hành lễ quần thần xong, viên thái y chẩn bệnh cẩn thận một lúc rồi đoán bệnh:




- Bệ hạ nổi giận cho nên nỗi khí xung can, uất hoả bốc lên, khiến máu nghịch hàn sinh thổ huyết. Hơn nữa khí cũng bị tích lại quá lâu, dược lực nhất thời e khó thấy kiến hiệu.




Tây thái hậu nghe lời đoán bệnh của thái y, bất giác thở dài một tiếng, tỏ ý như thoải mái, nhẹ nhõm. Cũng lúc này, bọn nội giám đã đẩy cái xe nằm lại, rồi hè nhau vực Quang Tự hoàng đế lên xe. Tây thái hậu đích thân cầm cái gói đặt xuống phía dưới đầu cho ngài, miệng không quên dặn dò ba, bốn lần là nên tĩnh dưỡng cẩn thận, chớ có liều lĩnh, nhìn ngoài mà xét, thì Tây thái hậu lúc này như tỏ một tình cảm vô cùng thâm hậu với Quang Tự hoàng đế.




Trong trạng thái mơ màng, Quang Tự hoàng đế lại được đưa trở về Doanh đài. Cẩn phi đã đợi từ lâu, mặt mày tự nhiên xám ngoét chứng tỏ nàng đã bị đánh quá đau.




Quang Tự hoàng đế vừa trông thấy Cẩn phi bèn giơ bàn tay xanh gầy lên vẫy vẫy, có ý như bảo nàng hãy lui đi, hoặc đi xa hẳn đi, khỏi phải hầu hạ ngài.




Sau khi đưa Quang Tự hoàng đế về Doanh đài rồi, Tây thái hậu biết bệnh tình của nhà vua đã đến lúc trầm trọng, e khó có thể qua khỏi, mà lấy làm lo. Đã từ lâu, một mình buông rèm nhiếp chính, giải quyết mọi việc trong triều đình, bà cảm thấy Mãn tộc đã có nhiều người đem lòng đố kỵ, còn các thân vương thì không một kẻ nào là không dòm ngó ngôi lớn, thừa dịp có kẽ hở là hành động. Nếu chẳng may Quang Tự hoàng đế có mệnh hệ nào, ắt người trong họ thế nào cũng tranh nhau nhào vô kế vị. Đến lúc đó, một triều thiên tư một triều thần, kẻ khác làm vua tất có kẻ khác nhiếp chính. Nhất đán, đại quyền không còn trong tay, làm sao khỏi có kẻ khác chỉ huy lại bà? Và như vậy, bà đâu có còn cái ngày vinh hoa phú quý oai quyền nhất thiên hạ như bây giờ. Nghĩ đi nghĩ lại, bà càng thấy địa vị của bà lúc này lung lay hết sức, hoàn cảnh của bà vô cùng nguy hiểm. Do đó, bà vội vàng cho lệnh triều quân cơ đại thần Vinh Lộc nhập nội để bàn tính đại sự.




Nhưng cuộc bàn bạc đã kéo dài rất lâu mà vẫn chưa tìm được một giải pháp, Tây thái hậu vì vậy suốt ngày đêm buồn bã âu sầu, mặt không thấy lúc nào vui, nằm liệt trong cung cấm.




Khánh Vương Dịch Khuông thấy Tây thái hậu lo rầu như vậy bèn thừa lúc vắng tâu lên:




- Tây thái hậu, ngày mai là ngày âm thọ kỵ thần của Mục tông Nghị hoàng đế, Lão Phật gia có tính sửa soạn gì không?




Tây thái hậu giật mình quay lại bảo Khánh Vương:




- Ừ nhỉ! Mấy hôm nay bận việc quá khiến ta quên hết cả!




Nói đoạn, bà truyền lệnh cho bọn sư Lạt ma sửa soạn để tụng kinh niệm Phật, siêu sinh tĩnh độ suốt ngày hôm đó, lại cũng sai bọn đại thần cúng tế linh đình một phen. Nhưng chưa hết, Dịch Khuông còn tâu thêm:




- Theo thiển ý của nô tài thì trừ chuyện tế lễ ra, bọn nội giám còn cần phải diễn tuồng hát hội một ngày để cho Lão Phật gia giải phiền mới phải.




Bình sinh Tây thái hậu vốn thích ca nhạc tuồng chèo, bởi thế sau khi nghe Khuông tâu, tuy bà chẳng nói chi, chỉ sẽ gật đầu mấy cái mà Khuông cho là bà đã bằng lòng rồi. Thế là Khuông tự cho mình vinh hạnh lắm, nói mà thái hậu nghe ngay, liền tức tốc chạy vội ra ngoài kêu kép gọi đào, om xòm cả Bắc Kinh lên.




Ngày âm thọ kỵ thần của Mục Tông đã tới. Văn võ bá quan trong triều bỏ áo xanh ra, thay bằng bộ đồ trắng màu tang lũ lượt tiến về nhà Thái miếu để cúng tế. Từng hàng một, họ bước vào trong miếu xì xụp lạy, ra vẻ tôn kính nghiêm trang lắm. Lễ xong họ lũ lượt kéo về ngả Di Hoà viên để vào cung lạy Tây thái hậu.




Tây thái hậu truyền lệnh cho cả bọn lưu lại trong điện Đại Viện, rồi đặt tiệc chay thưởng tứ ân điển cho họ. Tiệc tùng xong, đến hát xướng. Khốn nỗi là sau vụ Canh Tý nọ, bọn đào kép cung phụng trong nội đình đã tứ tán đi hết, chỉ còn lại duy có mỗi anh kép già tên Tôn Cúc Tiên. Muốn để cho Tây thái hậu đẹp lòng, biết cho cái công trâu ngựa của mình, dù chỉ la cái công đi tìm mấy thằng kép và mấy con đào hát, Dịch Khuông vội chạy ra ngoài gọi cho bằng được một tên xướng võ sinh tên gọi là Liễu Tiểu Các.




Liễu Tiểu Các vốn là con trai của Liễu Nguyệt Các. Bố hắn cũng vốn là một võ sinh xuất thân, hắn cừ cả về lối diễn tuồng thần quái, cho nên mới có cái biệt danh là Tiểu hầu tử.




Liễu Tiểu Các được thày nghề là Dư Lão Mao bí truyền cho nhiều thuật vừa khéo vừa tài, cho nên khi diễn tuồng, Tiểu Các xem ra xuất sắc hơn cha nhiều. Nhờ đó, trong kinh thành Bắc Kinh, Tiểu Các cũng có đôi chút tên tuổi.




Hôm đó, Liễu Tiểu Các diễn ba tuồng: Thuỷ Liêm động, Kim tiền báo, Ba tiêu phiến, do chính Tây thái hậu chọn. Tiểu Các đem hết tài nghệ để cố sao được Tây thái hậu khen thưởng.




Quả nhiên hắn đã không biết để đâu cho hết lời khen của thái hậu.




Tuồng diễn xong, Tây thái hậu cho triệu Liêu Tiểu Các vào cung, hỏi tên họ, tuổi tác đủ thứ. Các nhất nhất đều trả lời rành mạch. Tây thái hậu rất lấy làm vừa lòng, bèn hạ lệnh cho Nội vụ phủ thưởng cho Các ba trăm quan tiền.




Liễu Tiểu Các lĩnh thưởng, tạ ơn, lui ra. Bọn con hát cùng gánh, kẻ nào cũng ca tụng Các, tâng bốc Các. Từ đó về sau, cứ hễ cung nội cần hát xướng, thế nào cũng phải có hắn. Và hắn còn được ra vào tự do trong cung cấm.




Có một hôm, Liễu Tiểu Các vào cung diễn tuồng, đem theo đứa con gái nhỏ tên là Tiểu Nguyệt. Diễn hát xong, Tây thái hậu thưởng cho hai cha con Liễu Tiểu Các nào vải, nào lụa.




Tiểu Các đem con gái vào trước Tây thái hậu để tạ ơn. Thấy Tiểu Nguyệt vừa xinh xẻo, mặt đầy đặn như trăng tròn, da thịt mịn màng như trứng gà bóc, lại vừa hoạt bát đáng yêu, Tây thái hậu bèn chỉ hỏi.




- Chứ con cái nhà ai vậy?




Liễu Tiểu Các dập đầu tâu:




- Nó vốn là con gái của nô tài.




Tây thái hậu hỏi thêm:




- Năm nay nó mấy tuổi? Nếu tiện, ngươi hãy để nó ở lại đây với ta cho vui. Mai ngươi bảo vợ ngươi tới đây đem nó về nhé!




Liễu Tiểu Các dạ dạ luôn mồm, rồi lạy tạ lui ra, và khi về nhà, chuẩn bị mọi chuyện để cho vợ tên gọi Nguyệt Hương ngày mai vào tiến cung gặp Thái hậu.




Bé Tiểu Nguyệt ở lại bên cạnh Tây thái hậu, mặc dù mới năm tuổi, nhưng rất khôn khéo, đặc biệt nhất là biết chiều người trong những lúc vui buồn, giận tức. Bởi thế, được Tây thái hậu hết lòng yêu.




Qua ngày hôm sau, Liễu Tiểu Các sửa soạn cho vợ vào cung để gặp Thái hậu.




Tây thái hậu thấy Nguyệt Hương tuy chỉ là một người đàn bà hạ lưu, nhưng diện mạo xinh xắn, nói năng dịu dàng, cử chỉ đoan trang, lễ phép bèn bảo Liễu Tiểu Các:




- Hiện nay trong cung cấm đang cần một người đàn bà hầu hạ. Vợ ngươi rất vừa ý ta. Ngươi hãy tạm thời để nàng ở lại đây ít lâu rồi hãy về nhà!




Liễu Tiểu Các vốn người ranh mãnh khôn ngoan, thấy Tây thái hậu nói vậy, mừng quýnh trong lòng, vì đó là điều cầu mong lâu nay mà chưa được.




Các vội vàng quỳ xuống tạ ơn.




Tây thái hậu bèn truyền nội giám đem ban thưởng cho Các nào tơ lụa, nào là đồ chơi, đồ cổ đủ thứ. Còn vợ con của Các cũng từ đó được lưu lại bên cạnh bà để hầu hạ. Tây thái hậu còn cho bé Tiểu Nguyệt một chiếc kiềng vàng, một đôi xuyến cũng bằng vàng.




Các loại kiềng vàng này nặng đến bốn lạng, nội vụ phủ làm sẵn để vào dịp lễ vạn thọ, dâng Tây thái hậu bán thưởng cho các nàng cách cách. Ấy thế mà mẹ con thằng kép hát ngày nay cũng được ân thưởng vật đó, há chẳng phải là một điều kỳ lạ đặc biệt đó sao?

Hồi 172 Cách mạng Dân chủ Trung Hoa




Lại nói nhà Thanh trải qua loạn Quyền phỉ, rồi Bát quốc Liên quân dày xéo Bắc Kinh, thêm vào đấy những bồi khoản về chiến phí, từ đó về sau xem ra nhụt hẳn nhuệ khí, mất hãn bộ mặt kiêu bạc như trước. Nhưng ở đời, phần nhiều cứ đến hồi đốn mạt, thì việc trước chưa qua, việc sau đã tiếp.




Thực tế, những miền như Hà Nam, Quảng Đông, các đảng cách mạng đang nổi lên như nấm chống lại nhà Thanh. Những đảng cách mạng đó có từ đâu vậy? Ngay từ khi Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu cùng vua Thanh thi hành tân chính thì những đảng này đã được phát động rồi.




Tại Quảng Đông, hồi đó có một tổ chức gọi là Hưng Trung hội, vị thủ lĩnh tên là Tôn Văn, tự là Dật Tiên. Văn người huyện Hương Sơn, tỉnh Quảng Đông, tất nghiệp trường Trung Tây Y học hiệu. Văn cũng đã từng là giáo sĩ đạo Thiên Chúa.




Như thế Văn vừa là y sĩ vừa là giáo sĩ. Về sau, Văn chuyên dùng nghề thuốc Tây chữa bệnh, đến đâu Văn cũng tuyên truyền cách mạng. Người tin theo Văn hồi đó đông lắm. Ấy cũng vì vậy nên triều đình nhà Thanh mới được mật báo, và từ đó theo dõi hành động của Văn.




Tổ chức thành Trung Hưng hội, Tôn Văn thấy hội viên của hội mình càng ngày càng đông. Bọn mật thám nhà Thanh ở Quảng Đông cũng được lệnh theo dõi Văn, và cuối cùng bắt Văn, bảo Văn kết hội lập đảng, giải tới nha môn của Tổng đốc Lưỡng Quảng.




Tổng đốc Lưỡng Quảng lúc đó là Lý Hông Chương. Chương thấy Văn ăn nói hoạt bát, biện luận khéo léo, nhìn người lại ra vẻ phẩm cách xuất chứng, tự nhiên phát sinh lòng mến.




Chương tự nghĩ một nhân tài như vậy, Trung Quốc đâu phải dễ có, hơn nữa bảo rằng Văn mưu phản chống lại triều đình thì chứng cứ chẳng có để kết tội. Thế là Chương thừa lúc công chuyện chưa đâu vào đâu liền phóng thích để Văn chạy thẳng một mạch, mất hút.




Sau khi thoát ngục, Tôn Văn tuyên truyền cách mạng càng hăng. Thêm một chuyện nữa là Lý Hồng Chương chẳng bao lâu lại được lệnh điều động về kinh để đứng ra nghị hoà với nước Đức, viên Tổng đốc kế nhiệm là Đàm Chung Lân. Nhân thấy Tổng đốc mới đáo nhiệm chưa am tường mọi việc, Tôn Văn bèn mưu việc khởi sự với bọn Trịnh Bật Thần, Lục Hạo Đông,Hoàng Bân Lệ, Chu Hạo Thanh, tính cướp chính quyền tỉnh Quảng Đông trước. Văn lại đánh điện cho bọn Đường Tài Thường ở Hồ Nam đợi tới giờ quyết định thì hưởng ứng.




Nhưng không ngờ chuyện bại lộ, Tổng đốc Lưỡng Quảng Đàm Chung Lân biết được mưu cơ của bọn Văn, đặt kế hoạch bắt trọn ổ bọn Lục Hạo Đông, đem ra pháp trường chém đầu ngay tức khắc.




Chuyện hỏng rồi, Tôn Văn hết thế đứng ở đây, nên chỉ còn cách tìm đường chạy sang Nhật Bản, nếu không thì rồi cũng bị thanh trừng như Lục Hạo Đông.




Đảng cách mạng đâu có chịu thua, đảng viên của Trung Hưng hội là Sử Kiên Như lập tức xách một trái tạc đạn ném vào giữa nha thự của Tổng đốc Lưỡng Quảng để báo thù và gây tiếng vang. Thực thế, tiếng vang cách mạng sau trái tạc đạn này càng ngày càng lan rộng đến khủng khiếp trong nội địa Trung Hoa, khiến nhưng người yêu nước lâu nay trùm chăn đều thức tỉnh.




Triều đình nhà Thanh lúc này đã biết rõ Tôn Văn là thủ lĩnh đảng cách mạng. Bởi thế, chuyện ném tạc đạn của Sử Kiên Như đều bị bọn vua nhà Thanh đổ lên đầu Văn. Biết Văn đã trốn ra hải ngoại, Thanh triều tức tốc đánh công điện cho công sứ Trung Quốc tại các nước ngoài, lưu ý lùng bắt.




Văn trốn sang Nhật Bản, Thanh triều biết được, liền chiếu hội Nhật Bản bắt giùm. Nhưng may cho Văn là khi ở Hoành Tân, Văn có quen một người Nhật tên là Cung Kỳ Dần Tàng, được ông này cho biết nếu không sớm chạy thì thế nào cũng bị bắt, chi bằng chạy sang Anh Quốc là hơn. Tôn Văn hoảng hốt tính cách chuồn khỏi Nhật Bản, nhưng khổ là tiền nong không có một đồng một cắc. Trong tình cảnh này, Văn nhận thấy có hoạt động cũng chẳng được, hơn nữa còn nguy đến tính mạng. Cung Kỳ Dần Tàng bèn giúp cho Văn mấy trăm bạc làm lộ phí để Văn lên đường sang Tây phương.




Tôn Văn miễn cưỡng ra đi, lên tàu thuỷ vượt Thái Bình Dương, thẳng nẻo Anh Quốc tiến phát. Ít lâu sau, Văn đã có mặt tại Luân Đôn, thủ đô sầm uất của Anh Quốc. Văn vội vàng tìm tới nhà y sĩ Kinh Lập Đức, nói rõ cho Đức biết lý do lưu vong của mình.




Tôn Văn và Kinh Lập Đức là hai bạn cũ quen nhau từ trước. Thấy tình cảnh Văn như vậy Đức liền dặn Văn phải cẩn thận:




- Thanh triều gửi điện đi khắp nơi truy nã ngươi rất gắt. Hiện nay, tại Anh Quốc, cũng có Trung Quốc sứ quán. Có thể bọn công sứ Trung Quốc tại đây đã nhận được lệnh của Thanh triều. Bởi thê, hễ khi nào ngươi muốn đi ra ngoài phố, nên báo cho ta biết một lời để ta sai người theo hộ vệ cho.




Tôn Văn gật đầu đồng ý, để tỏ lòng chiều theo ý kiến của Kinh Lập Đức đó thôi, chứ thực bụng Văn vẫn nghĩ rằng đâu có chuyện động trời đó. Văn cho rằng mình đã chạy ra hải ngoại, nhất là mãi Anh Quốc xa xôi này, dù Thanh triều có tìm cách truy lùng gắt gao đến đâu chăng nữa cũng chẳng thể biết được mà bắt. Lý luận kiểu đó, Tôn Văn bất cần những lời khuyên của Đức, đi ra ngoài, chẳng thèm báo cho Đức, cứ ngang nhiên xông xáo khắp nơi. Đã thế, Văn còn hay lảng vảng vào những nơi lưu trú học sinh Trung Quốc ở Anh, chẳng coi bọn công sứ Trung Quốc ra gì cả.




Thế rồi bỗng một hôm, có một người đồng hương tỉnh Quảng Đông tới mời Văn đi chơi. Văn chẳng nghi ngờ gì, liền đóng bộ vào đi ngay. Người đồng hương nọ dẫn Văn đi loanh quanh mấy phố, đến một toà nhà, mời Văn bước lên lầu. Khi lên tới trên lầu, quay lại nhìn không thấy người đồng hương nọ đâu, lúc đó Văn chột dạ đâm nghi. Văn vội đẩy cánh cửa sổ bên hông lầu, nhìn xuống dưới, bất giác hoảng hồn bạt vía, tóc gáy tự dưng dựng ngược cả lên.




Thì ra Tôn Văn nhìn thấy một cây Long kỳ (cờ có thêu con rồng biểu hiện cho Trung Quốc) đột nhiên kéo cao trên ngọn cột cờ, tung bay phấp phới trước gió. Văn vội quay vào trong, lớn tiếng gọi mấy tiếng; tức thì phía trong có một người đầy tớ chạy ra, trạc tuổi trung niên, vừa cười vừa hỏi chuyện gì Tôn Văn cất tiếng hỏi:




- Đây là nơi nào? Tại sao mời ta đến, lại giam cầm ta nơi đây như vậy?




Người đầy tớ nọ mỉm cười nói:




- Ngài tới đây đã một lúc rồi mà vẫn chưa biết gì sao? Nơi đây chính là tư gia của Củng công sứ Trung Quốc đấy. Sở dĩ có chuyện mời ngài tới đây là vì hoàng đế nhà Thanh muốn tìm ngài về nước để làm quan. Điện văn gửi tới tri chiếu cho ngài công sứ hiện có đây.




Nghe tên đầy tớ nói xong, Tôn Văn biết mình đã tự đưa cổ vào thòng lọng, tra chân vào cùm rồi, có lắp cánh vào lúc này cũng khó mà thoát nổi. Văn mặt tái xanh đi, bụng rối như tơ vò, suy đi nghĩ lại mãi mà vẫn không tìm ra một kế nào thoát thân. Văn nghĩ rằng chỉ còn có mỗi một cách gửi thư cho Kinh Lập Đức để nhờ Đức lập kế cứu mình, nhưng ai đem thư đi mới được chứ? Nghĩ quanh tính quẩn mãi một lúc, Văn đành quay về với anh chàng đầy tớ cất tiếng nói khó:




- Đã vào đây rồi, ta cũng chẳng tính đến chuyện ra làm gì Song ta có một người bạn, rất cần cho y biết tin ta. Vậy ngươi có vui lòng đi giúp ta đưa một bức thư không?




Lúc đầu, anh chàng đầy tớ nọ không chịu đi, nhưng sau nhiều lời ngon ngọt khéo léo của Văn, anh chàng nọ mới gật đầu ưng thuận, Văn được lời mừng quýnh lấy bút giấy viết vội mấy câu đưa cho anh đầy tớ nọ dặn đưa tới cho Kinh Lập Đức.




Tay cầm bức thư đưa cho anh chàng nọ, nhưng bụng vẫn sợ nửa đường hắn thay lòng đổi dạ, Văn bèn đem cái thuyết cứu người của Gia tô giáo ra thuyết cho anh chàng đầy tớ người Gia tô nọ nghe, mãi một lúc mới yên tâm để cho anh nọ ra đi.




Thực ra, Tôn Văn muốn làm yên lòng anh chàng đầy tớ nọ không phải chỉ có cái thuyết cứu người lúc cấp nạn của Gia tô giáo mà được. Văn còn phải cam kết một câu thật chắc, "Ngươi cứ can đảm mà đi. Nếu có xảy ra chuyện gì, ta sẽ nhờ người Anh can thiệp, khỏi phải lo tí nào".




Anh chàng đầy tớ nọ nghe được lời nói quyết này, lại thấy Văn không phải là một kẻ tầm thường, trong lòng cũng thấy tin tưởng sẽ không xảy ra việc gì liên luỵ đến y, bởi thế mới hăng hái ra đi cho Văn. Anh chàng giấu bức thư nguệch ngoạc mấy dòng của Văn vào trong túi áo rồi te te lên đường tới gặp y sĩ Kinh Lập Đức. Đức mở thư ra xem, hiểu rõ sự thật, giật mình hậm hực nói:




- Chết rồi! Mình đã dặn hắn rồi mà hắn văn không nghe. Thế là hắn đã tự đút cổ vào thòng lọng.




Kinh Lập Đức một mặt cho anh chàng đầy tớ nọ ra về, mặt khác chạy tới xúi anh chàng ký giả một tờ báo Anh đăng tải và chỉ trích tùm lum việc viên đại sứ Trung quốc ngang nhiên bắt người giữa nước Anh, không coi chính quyền Anh ra cái quái gì cả.




Chính phủ Anh được tin này, đời nào chịu bỏ qua, để cho người Tàu ngang tàng coi khinh luật pháp của nước mình. vội thảo ngay công văn chiếu hội sang cho sứ quán Trung Quốc, nói trắng rằng sứ quán Trung Quốc bắt người giữa nước Anh như thế làm tốn thương pháp quyền của nước Anh. Đã thế, chính phủ Anh còn giải thích thêm về Quốc tế công pháp và quyết rằng không một nước nào hiểu luật pháp mà lại đi làm việc vô luật pháp như vậy…




Sứ quán Trung Quốc thấy ngoại nhân đã can thiệp vào nội vụ, tự nhiên đâm ra ngán, chẳng dại gì mà trái luật, chỉ có nước thả Tôn Văn rồi ra nghiêng mình trước chính phủ Anh mà phân trần với những lời lẽ hết sức khiêm nhường lễ độ. Thế là công việc xong. Tôn Văn thoát được một tai nạn chết người.




Văn thoát thân rồi, tự lấy làm hối không theo lời bạn mình, mặt khác cũng không còn gan mật nào ở lại Anh Quốc. Ngay đêm hôm đó, Văn vội vàng cuốn gói khỏi nước Anh, lại quay về Nhật Bản, tìm một số đồng chí kỳ cựu hiện lấn trốn tại đây để bàn mưu tính kế hoạt động cách mạng.




Trong khi Tôn Văn thất bại bỏ trốn khỏi Trung Quốc, nhưng vẫn đeo theo sự nghiệp cách mạng, thì ở Quảng Đông, hội viên Dương Thiếu Bạch cùng một số đồng chí khác cũng nhất định không rời bỏ cái sự nghiệp của mình. Nhưng họ án binh bất động để chờ thời.




Đám cách mạng Quảng Đông thì chờ thời, nhưng những người ở Hồ Nam là nhóm Lý Tiếp Hoà, lại không chịu ngồi im. Họ cứ hoạt động, gây rất nhiều tổn thất cho Mãn Thanh, khiến tuần phủ Hồ Nam phải sai mật thám giăng lượn khắp nơi để lùng bắt.




Lý Tiếp Hoà thấy cơ nguy sắp tới, biết không tiếp tục hoạt động được nữa, vội chạy sang Mỹ.




Tôn Văn ở Nhật Bản được tin Trung Hưng hội của mình vẫn không bị tiêu diệt, bèn in một số lớn truyền đơn gửi về nước, tuyên truyền cách mạng, chiêu dụ thêm những thanh niên ưu tú vào hội.




Tin tức này truyền tới Bắc Kinh, bọn ngự sử người Mãn bèn dâng sớ tâu thái hậu, trong bản sớ có kèm theo cả tờ truyền đơn của Tôn Văn.




Tây thái hậu đọc một lượt bản sớ tâu lên, nhận thấy tờ truyền đơn của Tôn Văn, câu nào câu nấy đều nói về chính trị của nhà Thanh: nào là nội chính hủ bại, nào là dành riêng đại quyền cho người Mãn, nào là coi người Hán như nô lệ v.v… Những lời trình bày bên trong thật vô cùng thống thiết lâm ly. Hơn nữa tơ truyền đơn còn nêu rõ hết những tệ đoan, đập trúng vào tâm khảm của Tây thái hậu.




Tây thái hậu xem xong, suy nghĩ một chập, bất giác cả cười bảo bọn đại thần:




- Tên này hoạt động cách mạng lâu nay nhiều kẻ đã bị hắn mê hoặc tưởng chẳng phải là kẻ không tài. Đáng tiếc là hắn không chịu quy chính. Rồi đây mọi việc ngửa nghiêng cũng không ngoài con người này.




Lời nói này của Tây thái hậu tuy nhẹ nhàng, kín đáo nhưng xem ra cũng rất hợp với ý kiến chung của đám đại thần, ngự sử. Và cả bọn cũng đều coi đó như một ý chỉ của Thái hậu muốn đem ra thi hành.




Thế là qua ngày hôm sau, cả bọn dâng ngay lên Tay thái hậu một tờ sớ xin cho chiêu dụ Tôn Văn trở về với triều đình. Tây thái hậu đọc xong tờ sớ, không nói gì nhưng miệng lại cười ruồi làm cho bọn đại thần ngơ ngác không hiểu ra sao cả!




Thời giờ thấm thoát thoi đưa, chẳng mấy chốc mà cuộc đời đã tàn tạ. Thực thế, Vinh Lộc, viên đại thần cháu ngoại cưng nhất của Tây thái hậu đã chết. Bà được tin, triệu tập bọn đại thần lại để tìm cho Lộc một cái thuỵ hiệu, cả bọn nghĩ mãi mới ra được bốn chữ: "Khác cương chính trung" rồi trình lên. Tây thái hậu bèn cầm ngay châu bút khoanh tròn lấy chữ "Trung" ở dưới chót, do đó, thuỵ hiệu của Lộc là hai chữ "Văn Trung"…




Sau cái chết của Vinh Lộc, người ta lại thấy các chức vụ trong triều thay đổi suốt lượt. Lưỡng Hổ tổng đốc Trương Chi Động được điều về làm Thự Quân cơ đại thần, Na Đồng là Hiệp biện đại học sĩ. Ngoài ra, còn xuống chiếu cấm tục bó chân, thực hành việc thông hôn giữa hai dân tộc Mãn Hán (trai gái Mãn và Hán đều được phép lấy nhau).




Trong triều đình tuy có những cuộc tranh cãi như vậy, nhưng bên ngoài, bảy tỉnh an duy, bỗng sinh ra cuộc binh biến.




Hùng Thành Cơ hiệu triệu Dân đảng gây phong trào, dựng cờ khởi nghĩa, nhưng cuối cùng bị tiêu diệt. Binh biến vừa êm thì cuộc cách mạng phát sinh vào trung tuần tháng năm năm đó, đạo viên hậu bổ là Từ Tích Lân phát động phong trào cách mạng. Lân vốn là một học sinh tại Nhật Bản, tuổi chưa đầy ba chục, nhưng thường ôm chí lớn, tư tưởng lúc nào cũng đầy ắp lý thuyết cách mạng dân tộc. Thấy triều đình Mãn Thanh thối nát, bọn Tây phương bên ngoài xâm lăng, láo lếu khinh miệt dòng tộc Hán, Lân quyết chí xô đổ triều đình Mãn Thanh để tổ chức thành một quốc gia theo thể chế Cộng hoà. Có chủ trương như vậy, Lân kết giao một số các đồng chí khi còn ở Trường Kỳ (một hòn đảo lớn tại Nhật) sau đó quay về Trung Quốc tuyên truyền cách mạng.




Triều đình Mãn Thanh nhận thấy cách mạng hoạt động thường nổ ra đó đây gây nhiều vụ náo loạn, bèn ra lệnh truy nã các đảng viên cách mạng gắt gao.




Từ Tích Lân thấy mình là một anh lưu học sinh, nhất cử nhất động đều bị bọn quan lại địa phương theo dõi, tự biết mình rơi vào thế bất lực trong việc hoạch định kế sách. Bởi thế Lân nhận ra rằng phi nhảy vào trong chính giới quyết không thể hoạt động gì được. Hơn nữa, lúc này Lân hai tay trắng thì thử hỏi làm ăn gì được. Giữa lúc tiến thoái lưỡng nạn ấy, Lân may thay gặp được một nữ hiệp tên gọi Thu Cẩn.




Thu Cẩn và Tích Lân vừa giao đàm, tức thì hợp ý tâm đầu ngay. Thế là Thu Cẩn bỏ tiền ra giúp Tích Lân hoạt động.




Thu Cẩn vốn là một người đẹp nổi tiếng đương thời, lại là con gái trong một gia đình khá giả, đã từng tốt nghiệp tại đại học đường. Sau khi tốt nghiệp, nàng còn đi du lịch khắp Anh, Mỹ, Nhật Bản. Vừa có tài năng vừa có tư tưởng cách mạng, nàng được rất nhiều người tôn trọng. Cũng nhờ có ưu điểm này nàng thường giao du với bọn quan trường hiện đại, đấy chính là một con đường rất thuận lợi, khả dĩ giúp Từ Tích Lân hoạt động được.




Sau khi hai người đã tính toán trù liệu, Từ Tích Lân bèn mua lấy một chức đạo viên, để tiện việc hoạt động chính trị cách mạng, còn Thu Cẩn thì trở về quê nàng tức Thiệu Hưng, để tổ chức một trường học gọi là Đại thông học đường, mong quảng bá được tư tưởng cách mạng của mình.




Từ Tích Lân từ khi quyên được chức vị đạo viên, liền dốc hết tâm, mưu sự trong giới quan trường. Lân xoay sở nhập vào được cửa của viên quan phủ đài An Thuỷ tên là Ân Minh.




Chỉ cần thảo luận có một hôm thôi, Lân đã được Ân Minh công nhận là một nhân tài của đất nước. Thế là Lân được trọng dụng. Ít lâu sau, Lân được Ân Minh cho bổ sung vào chức vị uỷ viên luyện quân.




Cái mộng của Lân là làm sao nắm được binh quyền vì phải có binh quyền thì mới cách mạng được. Nay Lân đã có đủ thứ cần thiết trong tay, chỉ còn dần dần tìm cơ hội thuận lợi cho công cuộc nổi dậy của mình mà thôi. Một mặt luyện binh, Lân một mặt ước hội với các đồng chí ở Thiên Tân để thừa cơ khởi sự. Ở Thiệu Hưng, Thu Cẩn cũng tích cực chuẩn bị để hưởng ứng phong trào.




Không ngờ trời chẳng chiều người. Số là trước ngày khởi sự một hôm, một đảng viên tại Thiên Tân để cơ sự bại lộ, khiến bị bắt. Tin tức này tuy xảy ra, nhưng bị bịt kín, khiến Từ Tích Lân cũng chẳng hay biết một tí gì. Cho nên đúng ngày phủ đài An Thuỷ Ân Minh duyệt binh, Lân đã mật ước với đồng chí thừa dịp ám sát xong rồi khởi sự luôn.




Giữa lúc gieo neo nhất của sự kiện, tin tức bỗng đồn rầm lên là tại An Huy có cách mạng khởi nghĩa, bọn đồng đảng bị bắt tại Thiên Tân rồi. Viên tri phủ được tin ấy, vội hạ lệnh lùng bắt Từ Tích Lân, trong khi Từ Tích Lân lại đang đi tới gặp phủ đài Ân Minh.




Từ Tích Lân nghe tin đồn xôn xao phía ngoài dinh, cũng như phủ đài Ân Minh, cả hai đều không hiểu đấu đuôi ra sao. Viên phủ đài vội hỏi tin tức bên ngoài.




Từ Tích Lân lúc này biết cơ mưu đã bại lộ, chĩa ngay súng vào Ân Minh nã luôn hai phát, nhưng Ân Minh chưa chết ngay miệng vẫn còn hô lên được mấy tiếng:




- Bắt thích khách! Bắt thích khách!




Được báo động và nhất là nghe mấy tiếng "Bắt thích khách!" các quan văn võ trong nha môn nhất tề ùa ra và cổng phủ được đóng kín lại. Từ Tích Lân dù có cánh cũng khó lòng bay thoát được. Thế là chi trong mấy phút, Lân đã bị bắt.




Bọn nha lại hè nhau kéo đi bắt tiếp bọn học sinh quân. Đáng thương thay cho bọn này, ít không thể địch được nhiều, đến gần một nửa bị chết dưới làn đạn của quan binh.




Diệt xong đám học sinh quân, bọn nha phủ đem Từ Tích Lân ra thẩm vấn, Lân chẳng thèm chối cãi, nhận tất cả. Một vài kẻ còn đề nghị đem Lân ra mổ bụng lấy gan phổi để tế Ân Minh nữa. Chưa hết, còn có kẻ lục lọi hết những thư từ giấy má của Lân để tra xét; lúc đó, lại lòi thêm ra cái điện văn ước kỳ cử sự gởi cho Thu Cẩn. Tức tốc, họ đánh điện ngay cho viên tri phủ Thiệu Hưng, hạ lệnh bí mật lùng bắt Thu Cẩn, đem chính pháp để thị chúng.




Lại nói Thu Cẩn ở Thiệu Hưng mỏi mắt trông chờ hành động của An Huy, nhưng chẳng thấy tin tức gì. Giữa lúc nghi ngờ lo lắng ấy, Thu Cẩn bỗng nghe đồn. An Huy cách mạng bị thất bại. Tin đồn mỗi lúc một nhiều, nàng biết việc không thành rồi, tính tìm cách chạy trốn. Nhưng chưa kịp thoát ra ngoài thì bọn quan binh An Huy đã kéo đến vây khắp Đại thông học đường. Thấy không có cách nào trốn thoát Thu Cẩn đành thúc thủ chịu trói.




Điểm đặc biệt là tuy bị bắt, Thu Cẩn vẫn thản nhiên như không, chẳng có chút nào sợ hãi. Sở dĩ có thái độ thản nhiên đó, chỉ là do nàng tin tưởng ở viên tri phủ Thiệu Hưng vốn là nghĩa phụ của nàng. Nàng tin rằng thế nào rồi đây nàng cũng sẽ được nghĩa phụ nàng tìm cách cứu thoát.




Nhưng Thu Cẩn đâu có ngờ được rằng thế lợi thường làm mờ hết tình người.




Viên tri phủ Thiệu Hưng vỗ bàn đánh thình một cái, quát lớn:




- Thu Cẩn! Mi kết bè kết đảng, móc nối với bọn phản loạn như thế nào, khai thực hết ra đây, để bản phủ khỏi phải dùng hình.




Thu Cẩn đột nhiên thấy viên tri phủ trở mặt, bèn lớn tiếng kêu lên:




- Nghĩa phụ! Nghĩa phụ mà cũng ném đá xuống giếng nữa sao?




Viên tri phủ thấy Thu Cẩn nói vậy cũng giật mình, sợ mình liên luỵ vào nội vụ, liền lấy tay áo che mặt, miễn cưỡng nói:




- Tội mi đã rõ ràng, đừng che chống nữa!




Nói đoạn, viên tri phủ liền hét lớn, sai quân thẳng tay một hơi đánh bốn mươi roi song, máu bắn ra đầm đìa, xong rồi tống giam ngay Thu Cẩn vào nhà lao, đợi lệnh trên quyết xử.




Vài hôm sau, bọn đao phủ lôi nàng ra ngoài hiệu đình để xử chém. Khi ra pháp trường, từ biệt mọi người, Thu Cẩn nói lớn lên cho mọi người nghe thấy:




- Tội của ta bất quá chỉ là một tội tình nghi chưa đến nỗi bị chết chém! Đấy các người thấy chưa? Ta chỉ vì kết giao với bọn quan trường để đến nỗi mất mạng đó. Các người về sau này có muốn kết giao với chúng hãy nên lấy gương của ta mà soi trước.




Nói đoạn, Thu Cẩn ngang nhiên giơ thẳng cổ ra để cho bọn đao phủ chém, không hề tỏ ra sợ hãi. Quần chúng đi xem xử chém hôm đó đều than thở tiếc thương cho Thu Cẩn, mặt khác chửi rủa viên tri phủ vô tình, nhẫn tâm, chỉ vì tham ông cầu danh, khiến cho một cái đầu người phải rơi xuống một cách oan ức đau thương.




Lại nói Thanh triều thấy cách mạng càng ngày càng nổ ra, náo loạn khắp mọi nơi, chỗ này vừa dẹp tan thì chỗ kia lại xuất hiện, chỉ trong vòng một tháng mà đã thấy đến hai, ba lần ở hai ba nơi khiến gần như không còn một chỗ nào là yên tĩnh nữa. Mấy ông quan to trong triều cũng như các ông quan ở địa phương lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, bóp óc nặn gan ra để tìm cách cứu vớt tình hình xem ra đã đến lúc quá nát rồi. Bọn đại thần như Trương Chi Động lúc này đều cùng một chủ trương là phải lập hiến để thuận lòng dân. Họ cho rằng một khi lòng dân đã yên, thì cách mạng tự nhiên phải hết. Tây thái hậu nghe chủ trương này cũng rất tán thành.




Do đó, bà liền sai bọn Tải Trạch đi ra hải ngoại, và các nước tiền tiến văn minh, khảo sát hiến chính.




Bọn Tải Trạch lĩnh chỉ ý, đang sửa soạn lên đường, không ngờ bị Ngô Viện ném cho một tạc đạn ngay phía ngoài cửa Chính Dương. Trong số năm anh đại thần xuất dương, thì hai anh không may trúng phải mảnh tạc đạn bị thương nặng. Vụ ném tạc đạn này càng làm cho Thanh triều hoảng kinh và phải quyết tâm cao hơn nữa để tổ chức hiến chính. Bởi thế, Thanh triều lại định một ngày khác để cho phái đoàn khảo sát lên đường.




Hồi này, Khánh thân vương Dịch Khuông nắm trọn đại quyền trong tay. Bởi vậy, đồng bọn của vương như Kỳ Thiện Tải, Thiết Lương, ấm Xương… đều nhờ đó nắm quyền lớn cả.




Dịch Khuông vốn là một người hết sức tham lam. Nhất thiết chính sự, đều kệ bọn tiểu nhân mặc sức thao túng và vẽ vời, riêng ông chỉ biết ngồi để lượm bạc cắc do bọn này đem tới hiếu kính.




Tây thái hậu, từ sau khi hồi loan, mọi việc chính sự đều không tha thiết tới, nhưng chuyện tiền tài thì một mảy may cũng không tha, cho nên, trước khi có loạn quyền phỉ, bà đã để riêng được hơn một ngàn năm trăm vạn lượng vàng nén.




Khi bát quốc liên quân đánh vào Bắc Kinh, Tây thái hậu hoảng hốt chạy trốn, số vàng kếch xù này bị bọn nội giám chia nhau lấy hết sạch. Rồi lúc trở về đến cung tìm kiếm lại, bà chẳng còn thấy được một mảy may nào, ngay cả đến một đồng tiền. Đã nhiều đêm, nhớ đến đồng tiền do bao nhiêu mưu chước tinh quái mới có được bà ứa nước mắt. Nhưng địa vị, thế thần của bà thì cái gì mà chả được, cho nên bà lại quyết chí làm giàu một phen nữa. Bà thường nói với bọn nội giám thế nào bà cũng phải cho chúng thấy cái tài của bà.




Dịch Khuông được cơ hội này, bèn giả danh hiệu "liềm tiền" (tiền đóng góp) để hiếu kính Thái hậu, nhưng sự thật thì tám phần mười đóng vào hầu bao của Khuông, chỉ có hai phần mười vào tay Thái hậu mà thôi. Về sau, các khoản tiền này càng ngày càng nhiều. Chân đạo đài ở Thượng Hải thuộc tinh Giang Tô có thể nói là béo bở vào bậc nhất, mỗi năm phải cúng mười vạn lạng, gọi là tiền phấn sáp cho Thái hậu. Phàm văn võ quan viên, tất cả đều phải nói tới tiền trước, đều phải có tiền cúng đầy đủ, theo cấp bậc to nhỏ trên dưới. Bất luận chức vụ, cấp bậc cao thấp nào đều phải đánh giá qua cái tính cách béo gầy, thâu được nhiều hay ít lợi Đấy là cái lối tham nhũng ăn tiền, đục khoét của thời Quang Tự, mà lại do chính Tây thái hậu chủ trương trước.




Hối lộ tham nhũng công nhiên chẳng thèm che giấu như vậy trách sao bọn quan lại từ trên xuống dưới lại không tham nhũng và đục khoét xã hội Trung Hoa khiến người dân cơ hồ như không còn miếng ăn nữa.




Rồi đến lúc bọn quan lại bên ngoài bóc lột đã hết mức, không còn cách gì để bóc lột nữa, Dịch Khuông bèn nghĩ ra một kế hoạch mới: đó là mở toạc chiếc cổng hối lộ cho mọi người thấy, khỏi cần phải úp mở gì. Ai muốn làm quan lúc này thì đã có giá sẵn rồi, cứ việc đem số tiền đó mà cúng vào thì tự nhiên là thành quan, khỏi cần phải thi cử đỗ đạt, học hành gì cho thêm mệt. Ví dụ như: Chức tri huyện thì phải nua năm ngàn đồng bạc, từ chức tri phủ trở nên, muốn mua thì hoặc là một vạn, hoặc hai vạn, và cứ như thế mà tăng lên dần dần, đến mãi chỗ nào không thể được mới thôi.




Cái địa vị mà kẻ bạch đinh chân trắng dù nhiều tiền mà không thể ngồi lên nổi được, đó là hai cái ngôi vị của tước vương và tước công. Hai cái chỗ này thì quả là quan trọng, chỉ dành riêng cho những bậc hoàng thân quốc thích và những người đỗ đạt cao như tiến sĩ, trạng nguyên và có uy danh lừng lẫy, có công trạng đối với triều đình và quốc dân. Thực ra, lệ này cũng chỉ có hiệu lực ở buổi đầu thôi, chứ dần dần về sau, thì duy chỉ có tước vương là dân bạch đinh không thể leo lên được thôi, chứ còn từ cấp nhị phẩm trở lên cho đến tước công như ta vừa nói tới đều có thể với tới, miễn là có nhiều tiền. Có trường hợp ba, bốn anh họp lại thành một bọn để cùng mua một chức quan, rồi một anh đứng ra nắm chính quyền.




Mấy anh hùn vốn kia cũng kéo nhau tới nhiệm sở để hùa nhau tìm cách đặt kế bóc lột dân, đào khoét công quỹ đến kỳ hết mới chịu thôi. Cả bọn vơ vét được bao nhiêu, Lúc đó đem tính toán với nhau, trừ số tiền vốn hùn để mua quan ra, lời lãi còn lại sẽ đem chia đều để đút túi.




Chuyện mua quan bán tước này tuy nói rằng công khai đấy nhưng thực ra chỉ công khai đối với bọn thính mũi ngửi được hơi địa vị quan trường thôi chứ quần chúng thì thực như ngủ trong trống, không được biết một tí gì. Nhưng về sau, một câu chuyện bi hài xảy ra như sau khiến lúc đó tệ trạng này tiếng tăm tùm lum lên, không còn ai là không biết nữa:




Tại tỉnh Cam Túc, có ba anh chàng bán quán thường gọi là chú Ba, chú Tư, chú Bảy làm ăn ngày càng xuống dốc, sắp đi tới chỗ cụt vốn, anh nào anh nấy chán nản muốn tự tử.




Bỗng một hôm chú Ba ta nghĩ ra được một lối thoát. Chú reo lên vì vui sướng, chạy tới bàn với hai chú kia?




- Này các cậu! Bọn quan lại hiện nay bóc lột quần chúng đến xương tuỷ, cách làm ăn của bọn ta xuống dốc mãi, thì chỉ còn nước tự tử hay bị gậy thôi. Phải tìm cách khác mà sống. Trừ phi cái nghề làm quan lúc này còn thì không nghề gì sống nổi. Các cậu nghĩ xem?




Tư và Bảy thoạt nghe nói phá lên cười, cười ngặt nghẽo, cười đến đổ ghế xiêu bàn, cho rằng chú Ba nhà ta điên rồi.




Cười một lúc, Tư và Bảy mới chỉ vào mặt Ba mà bảo:




- Chú mày muốn được làm quan? Xin hỏi chú mày lấy cái tài gì, tư cách gì mới được chứ?




Hỏi vậy xong, Tư và Bảy lại cười tiếp. Ba ta nghiêm ngay sắc mặt lại, cất tiếng như quát vào hai tên kia:




- Tụi bay ngu lắm! Ngu thiệt! Ngu hơn ai hết! Làm quan đời nào, chứ đời này thì, có cần tư cách gì đâu. Tụi bay chỉ cần có năm ngàn đồng bạc là thành ông huyện ngay, nghe chưa?




Tư và Bảy nghe nói lấy làm lạ, hỏi ra mới rõ chuyện mua quan là thế nào, nghe mê quá, bàn ngay tới kế hoạch thực hiện. Thế là cả ba anh chàng bán quán chạy về nhà, có, gì bán nấy, bán hết bành cờ hiệu, thậm chí đến cái váy của vợ, cái quần xà lỏn của con cũng mang đi bán, cốt làm sao thu đủ được số tiền năm ngàn quan cho Ba để Ba ta lên đường mặc cả chức tri huyện với bề trên…




Việc mua bán đã xong chỉ còn chờ. Chẳng bao ngày, ghế tri huyện Thanh Điền khuyết, chàng Ba quán nhậu ta được bổ ngay vào đấy. Thật là trời chiều người, cờ đã đến tay, lúc này tha hồ phất.




Khi bát quốc liên quân đánh Bắc Kinh, Ba mất số tiền lớn là một ngàn năm trăm vạn, ấy thế mà ngoài số tiền một ngàn năm trăm vạn này đã thu lại nguyên như trước, Ba còn kiếm thêm được cả hai ngàn vạn nữa.




Nếu nói đến bọn nội giám trong cung đình hồi này, thì Lý Liên Anh già quá đã chết rồi, còn một số khác thì đã quá già hoặc cũng chết hết cả rồi. Kẻ đắc thế nhất lúc này phải nói tới tên nội giám Tiểu Đức.




Tiểu Đức vốn họ Trương, cho nên mọi người trong kinh thành vẫn thường gọi là Tiểu Đức Trương. Khi bước chân vào cung, Tiểu Đức Trương mới có mười tám tuổi, mặt mũi thật tuấn tú xinh đẹp và duyên dáng nữa là khác. Cha đẻ của Tiểu Đức có nghề buôn đồ cổ rất giỏi. Vào thời trung niên, ông ta làm ăn, góp nhặt được một sản nghiệp kha khá. Nhưng khi sanh Tiểu Đức ra chưa được bao lâu, người cha chẳng may mất đi, để lại hai mẹ con Tiểu Đức goá bụa, côi cút.




Bởi chỉ có một đứa con, bà mẹ Tiểu Đức cưng quá mức, khiến đến khi lớn lên, Đức suốt ngày lêu lổng, cờ bạc, chơi bời, đĩ điếm, không một cái gì truy lạc là không làm. Cơ nghiệp của người cha để cho hai mẹ con được bao nhiêu thì ngày nay Đức cho đội nón ra đi bằng hết. Mẹ Đức khuyên bảo con hết lời, nhưng tính nào vẫn tật ấy, Đức không động tâm, không sửa chữa, và đương nhiên là không nghe lời hơn lẽ thiệt của mẹ. Bà lão cũng vì thế mà buồn chán, rồi đâm bệnh, chẳng bao lâu bà đi theo luôn với ông già ngày nọ.




Cha chết, rồi mẹ chết, lúc này Tiểu Đức quả thực là tứ cố vô thân, không còn có chỗ nào để trông mong, nhờ cậy nữa.




Thế rồi, không đầy nửa năm, Đức bán cho bằng hết không gì còn sót lại của cha gây dựng trước đây, bán đến không còn sờ thấy một cây rơm cọng rác nữa. Nhà cửa sạch không rồi, Đức chỉ còn cách bỏ xứ đi tha phương cầu thực. Đức lang thang mãi, sự trời may nhờ gặp được Tiểu Vương, xin vào hầu hạ trong nhà kiếm chút cháo.




Tiểu Vương vốn là một tên nội giám trong cung cấm của Thanh triều. Thấy Tiểu Đức mặt mũi khôi ngô điển trai, Tiểu Vương bèn bảo:




- Mặt mũi mi khá quá. Nếu mi chịu thiến cái "của nợ" đó đi, thì tao quyết tìm cho mi cái giàu sang hơn người một phen cho mà xem. Giàu sang rồi thì mi tha hồ sung sướng.




Tiểu Đức nghe lời của Tiểu Vương dạy khôn. Sau một tháng trời rên la nhức nhối vì vết thương, Đức trở thành một con người có giá, lúc này có thể vào bên cạnh nhưng người đẹp của hoàng đế để hầu hạ vuốt ve nâng giấc thay cho ngài.




Thấy đã đến lúc nên đưa Tiểu Đức vào cung, Tiểu vương một hôm vào tâu và tiến cử thẳng cho Tây thái hậu. Được cái hay là Tiểu Đức vốn người hết sức lanh lợi, ngoài cái dáng vẻ điển trai ra. Tây thái hậu thấy thế càng thích, càng sủng ái. Bởi thế chẳng bao lâu, Tiểu Đức được Tây thái hậu cho làm thủ lãnh bọn tiểu thái giám trong nội.




Thấy được Tây thái hậu sủng ái, Tiểu Đức càng ngày càng lộng hành. Đức vốn chỉ là một kẻ tiểu nhân cho nên khi hầu hạ thân cận bên Thái hậu hắn tìm mọi cách để khiến cho bà tin cẩn để dễ bê làm bậy.




Bình sinh, Tiểu Đức thích đánh bạc. Trong cung cấm, hắn lại giở cái trò này ra. Thế là cả bọn, nào tiểu thái giám, đại thái giám, nào lão thái giám, nào cung nữ già, nào cung nhân trẻ, tất cả đều đổ xô lại kiếm hắn để đánh bạc. Chuyện thú vị nhất là chính Tây thái hậu cũng biết và thích chơi súc sắc, nữa. Thế là cái tính đánh bạc của Đức đã chẳng những được bà tha thứ lượng tinh, mà còn được bà cho phép tổ chức ngay tại trong cung để rồi chính bà cũng ghé vào đánh cho vui nữa.




Đã nhiều lần Tây thái hậu bảo Đức đứng ra làm cái để cho bà cùng bọn cung tần mỹ nữ trong cung cùng đánh Từ khi trò đánh bạc lên cao, toàn thể cung nhân nơi cung cấm đều túm năm tụm ba từng góc tường xó cửa để chơi. Bọn nội giám kẻ thua người được đâm tranh nhau, cãi nhau, thậm chí đánh nhau nữa. Quy chế hà khắc trong cung cấm đến lúc này quả đã hư hỏng đến cùng độ rồi.




Có một hôm, Tiểu Đức mở sòng. Tây thái hậu cũng như bọn phúc tấn và cách cách xúm nhau vào đặt tiền. Tây thái hậu nhắm đôi mắt lại để nhẩm tính nước bài. Giữa lúc ấy, Tiểu Đức cố ý đặt tay lên nắp hộp súc sắc, cất tiếng xướng lớn:




- Mở này! Mở này!




Tây thái hậu mở mắt lớn, cả giận nói:




- Thằng kia! Ai dạy cái lối hạ lưu đó?




Tiểu Đức thấy Tây thái hậu cả giận, vội dập đầu tâu:




- Nô tài vốn không biết cái lối này. Nhưng năm ngoái nô tài nhờ được một vị hậu bổ tỉnh Sơn Tây tên gọi Từ Tử Minh dạy cho lối đó. Tử Minh bảo nô tài: Thảng hoặc có người nhẩm tính nước bài thì thường mình chỉ có thua chứ khó lòng được. Bởi thế, bất luận xấu tốt cách nào, cũng phải chặn ngay, làm cho người đó phân tâm đi, không tính toán được nữa.




Tây thái hậu nghe Đức nói, gật đầu mỉm cười, không còn có ý tức giận, trái lại còn khoái nữa là khác.




Câu chuyện cờ bạc này truyền đi mỗi ngày một xa. Hậu bổ Từ Tử Minh được tin này lấy làm khoái lắm liền nói phét lác rằng:




- Cái lối đánh bạc của ta đến Tây thái hậu cũng biết đấy chứ chẳng phải chơi đâu! Chúng bây thấy chưa?




Doạ đàn em, vậy rồi, Tử Minh bèn mở ngay một sòng bạc lớn, công nhiên đánh bạc, lấy hồ, chẳng coi ai ra gì. Tri phủ Sơn Tây là Đào Cảnh Như thấy Minh làm chuyện phi pháp bèn bắt trói Minh, tống vào nhà giam, tước luôn cả chức vị của Minh. Khi nằm trong ngục, Tử Minh cho người đem tiền bạc hối lộ cho viên tri phủ Cảnh Như, nhờ đó Cảnh Như cũng vơ vét được một mẻ kha khá. Được chấm mút rồi, Cảnh Như thả ngay Từ Tử Minh, lấy cớ rằng Minh bị bệnh thần kinh.




Thoát ngục rồi, Từ Tử Minh lại mở sòng bạc, chuyến này còn lớn hơn nhiều.




Tri phủ Đào Cảnh Như mắt nhắm mắt mở, tuy có trông đấy nhưng hình như không thấy gì, nhất là cái sòng bạc lớn lù lù trước mắt. Thực là một quái trạng nhưng kỳ thú trong giới quan trường đời nhà Thanh hồi mạt diệp.




Tiểu Đức có một thế lực như vậy trong cung cấm, tất nhiên bọn nội giám bất đắc chí kéo nhau tới quy luỵ, nịnh nọt. Ngay cả bọn cung nữ, phi tần không một chị nào là không chạy tới để nhờ Đức che chở và làm theo mệnh lệnh của Đức. Kẻ không bị Đức chỉ huy có lẽ chỉ có một mình Long Dụ hoàng hậu mà thôi. Bình thời Đức chẳng sợ một ai cả, ngoài Tây thái hậu ra. Ấy thế mà duy chỉ có mỗi một mình Long Dụ hoàng hậu là Đức nghe theo hết mọi mệnh lệnh sai khiến. Cũng do chỗ kỳ lạ này mà người ta thấy Long Dụ hoàng hậu rất tin lời của Đức, rồi dần dần, ngày một ngày hai, Tiểu Đức biến thành một tên hầu thân tín nhất của hoàng hậu. Trong chốn cung đình, từ đó điều nọ tiếng kia, đồn đại trong ngoài, nào những chuyện dâm bôn tục tĩu, nào những tin giật gân, kỳ quái, xảy ra bàng ngày. Tây thái hậu e ngại những tin đồn đại nhơ nhớp này, đành phải tống cổ Tiểu Đức ra khỏi cung.




Về sau, khi Tây thái hậu mất, Long Dụ hoàng hậu còn tái dụng Tiểu Đức một lần nữa và thường nghe những chủ trương của y, ví dụ như việc xây cất Thuỷ tinh cung giả hàn. Song những chuyện này ở mãi về sau, khi nhà Thanh chẳng còn được bao lâu nữa. Chuyện sau đó, ta hãy tạm gác tại đây.




Lại nói từ khi xảy ra chuyện đánh gãy cành trâm ngọc của Long Dụ hoàng hậu do Quang Tự hoàng đế gây nên, Tây thái hậu biết là bất hoà giữa hai người không còn có cách gì hàn gắn được nữa. Bởi thế, ít lâu sau, bà truyền cho Long Dụ hoàng hậu rời khỏi Ỷ Hương điện chuyển qua ở tại Di Tâm các. Long Dụ hoàng hậu thấy Quang Tự hoàng đế bạc tình như vậy, trong lòng hết sức buồn bã. Nhưng từ khi Tiểu Đức vào cung, tìm đủ cách nịnh hót, đủ lối hầu hạ, hoàng hậu bỗng cảm thấy đời tươi lên. Đối với hậu lúc này, bất cứ việc gì, vật gì do Tiểu Đức làm hoặc dùng đều được bà khen tốt cả, hay cả, trái lại, do một người nào khác, thì bà đều quở là dở, không bao giờ vừa lòng. Bọn nội giám trong cung hiểu được duyên cớ bên trong của câu chuyện, đều rút lui ra sau, để mặc cho Tiểu Đức được tự do hầu hạ hoàng hậu. Thành thử, bất cứ chuyện gì tại cung hoàng hậu, Tiểu Đức đều tự mình lo liệu lấy hết, không để cho một kẻ nội giám nào khác mó tay vào.




Có một hôm, mưa xuân phơi phới đầy trời, Tây thái hậu đội mưa đi chơi xuân trong vườn, hoàng hậu cáo bệnh không đi còn tất cả phi tần cũng có mặt phụng giá.




Không ngờ, mưa mỗi lúc một nặng hạt, Tây thái hậu bèn ra lệnh cho các phi tử ai về nhà nấy, bà Cẩn phi vội vã đội mưa xông gió chạy đi trước.




Cá tính của Tây thái hậu là thích đi chơi dưới mưa bay. Bọn phi tần chạy theo sau, dù có lọng, cũng không dám giương lên. Đã nhiều lần, bọn phi tần, phúc tấn, cách cách theo Tây thái hậu dạo chơi dưới trời mưa trong vườn, đều phải để mặc cho mưa rơi, ướt sũng đầu tóc cũng phải chịu. Khi thái hậu ngồi kiệu thì cả bọn nhảy lên kiệu ngồi. Trái lại, khi thái hậu đi bộ thì cả bọn lại đành phải đi bộ, chứ không dám làm khác.




Hôm đó đi chơi dưới mưa, Cẩn phi biết cái tính kỳ quặc của Tây thái hậu, cho nên không mang dù đi. Rồi đến khi được lệnh cho về, quần áo bị ướt sũng, Cẩn phi thấy cần phải chạy về để thay. Cẩn phi ba chân bốn cẳng chạy qua phía dưới gác Di Tâm, bỗng nghe một tiếng ho, rồi một bãi đờm nhổ toẹt thẳng vào mặt nàng. Cái người nhổ đờm nào đó có lẽ khi nhổ không có ác ý gì, Cẩn phi chắc cũng biết thế, cho nên cái nhổ đỏ chỉ giúp cho nàng nhớ tới một việc là hoàng hậu cáo đau, không đi theo thái hậu dạo chơi trong vườn.




Nhớ lại như vậy, Cẩn phi thấy cần phải tới vấn an bà mới phải, hơn nữa cũng để tránh sự trách mắng vô lễ của bà. Chủ ý đã định, Cẩn phi bèn lặng lẽ bước lên gác. Chân nàng bước đã nhẹ, mặt đất lại lót bằng thảm nhung êm dày.




Cẩn phi bước đã lên đến từng trên gác, mà hoàng hậu vẫn không hay biết một tí gì. Đợi đến khi Cẩn phi bước hẳn vào bên trong cửa, nghe mấy tiếng động nhẹ, hoàng hậu mới tưởng là tên tiểu thái giám thường hầu hạ bà. Bà lên tiếng hỏi:




- Đứa nào chạy lộn xộn ngoài đó đấy?




Theo lệ, thường thì khi phi tần vào yết kiến Đế hoặc Hậu, họ đều phải có một tên tiểu thái giám chạy vào báo trước, Cẩn phi đã vào đây nhiều lần, quá quen rồi, cho nên chẳng để ý đến thông lệ này. Bỗng tiếng hỏi bất ngờ của hoàng hậu làm cho Cẩn phi dừng ngay gót lại, không dám tiến sâu vào nữa.




Hoàng hậu thấy người nào dừng lại, không bước thêm liền sinh nghi, vội chạy ra. Vừa thấy bóng hoàng hậu, Cẩn phi vội vàng cúi xuống thỉnh an. Nhưng cũng cái lúc thảng thốt mà hoàng hậu chạy ra thì Cẩn phi đã thấy trên giường của hoàng hậu anh chàng Tiểu Đức trần như nhộng, đang nằm dài thườn thượt như có vẻ đã được thoải mái quá rồi, đến lúc phải nghi ngơi đôi chút.




Hoàng hậu lúc đó, cử chỉ có vẻ hơi bấn loạn, vội lên tiếng quát bảo Tiểu Đức:




- Thằng kia! Mi không cút đi ngay phải không? A thì ra cái thằng này láo lếu bừa bãi thực?




Tiểu Đức đâu có ngờ tới Cẩn phi bất chợt bước vào, không một tiếng động, không một lời báo trước. Cho nên ngay cả lúc hoàng hậu đứng nói chuyện với nàng, hắn cũng cứ thản nhiên nằm trên giường dương dương tự đắc, chứ đâu có ngờ rằng oan gia gặp đường hẹp. Nhưng đến lúc biết là Cẩn phi rồi, thì Tiểu Đức mới hoảng hốt vùng dậy, tay chân run lên, quơ bên này cào bên nọ, lôi cái áo, rút cái quần, quýnh quýnh đúng như một thằng ăn vụng có tội. Giữa lúc tiến thoái lưỡng nan của Tiểu Đức, may thay cho hắn được hoàng hậu quát thêm lên vài tiếng bảo hắn đi lấy phất trần để quét bụi trên bàn. Ấy thế mà hắn cúng quýnh quýnh mãi một hồi nữa mới mặc xong quần áo mà vội vã chạy đi.




Long Dụ hoàng hậu bị bắt tại trận, tất nhiên không thể nào bình tĩnh được. Mặt bà bỗng đỏ ửng lên, mắt bà như tá hoả thành trăm ngàn tia lửa nhưng rồi dễ tắt lịm đi, tối om. Đôi tay bà nêu có ai để ý thì sẽ thấy mười ngón tay chúng bắt chuồn chuồn không ngớt.




Cẩn phi nhìn thấy quang cảnh này dù chỉ trong chớp nhoáng cũng phải biết tại nơi đây, đã xảy ra chuyện gì rồi. Nàng chẳng còn cách gì hơn là thăm hỏi vài ba câu qua loa, để từ giã hoàng hậu ra đi, cho đỡ bẽ cả đôi đường.




Trên đường đi trở về Doanh đài, Cẩn phi càng nghĩ càng lấy làm lạ cái cảnh vừa qua. Gặp Quang Tự hoàng đế, định nói toạc ra nhưng lại ngập ngừng không dám nói. Tại sao vậy.




Số là sau ngày thổ huyết, bệnh tình của Quang Tự hoàng đế không thuyên giảm được bao nhiêu. Hơn nữa, chính hôm thổ huyết té ngửa đó, hoàng đế đã trợn mắt lên, nghiến răng ken két như có điều vô cùng căm hận đối với hoàng hậu. Bởi thế, nếu đem nói toạc trò quỷ quái vừa thấy ra, nàng e rằng có hại cho sức khoẻ của hoàng đế. Tuy nhiên, sực nhớ lại những lúc hoàng hậu ton hót với thái hậu, và những lúc đánh đập làm khổ nàng nhiều phen, nàng lại thấy máu uất bốc lên, tiếng kêu gọi trả thù lại vang lớn trong thâm tâm. Thế rồi cuối cùng hận thù đã thắng, nàng bèn rỉ tai Quang Tự hoàng đế thuật lại một lượt tất cả những gì nàng vừa thấy trong phòng ngủ của hoàng hậu.




Quang Tự nghe xong chuyện kể, nhảy đến vù một cái từ mặt giường lên khoảng không, để rồi lại rơi xuống mặt giường, miệng quát lên như điên:




- Con tiện tỳ khốn nạn! Con khốn nạn! Tao phải giết mi! Tao phải giết mi.




Quát xong, Quang Tự hoàng đế nhoài ra cạnh giường, đứng dậy, tính bận quần áo chạy đến gặp Tây thái hậu. Cẩn phi thấy quang cảnh sôi động bất ngờ và nhất định là tai hại không biết tới đâu mà lường, vội chạy lại ôm lấy ngài để khuyên can, nàng nói:




- Bệnh tình của hoàng thượng vừa mới bớt, cần nên tĩnh dưỡng. Chuyện này, sớm chiều gì rồi sẽ giải quyết, vội vã làm gì? Hơn nữa, chuyện này, chính mắt thần thiếp được mục kích. Nếu câu chuyện nổ ra tùm lum thì thế nào mà thần thiếp chẳng bị luỵ vào đấy.




Quang Tự hoàng đế suy nghĩ một lát rồi nói:




- Ta đã biết vậy rồi. Nhưng nếu không cho chúng biết tay một phen, thì về sau còn làm gì được nữa? Nếu không gặp Thái hậu để tố cáo cho bà biết chuyện của con khốn nạn nọ thì rồi ta cũng phải gọi cái thằng khốn kiếp kia đến đây để cho nó một bài học mới được.




Nói đoạn. Quang Tự hoàng đế liền gọi một tên tiểu thái giám chạy đi triệu tên Tiểu Đức đến Doanh đài ngay để kiến giá.




Lại nói khi Cẩn phi trở về Doanh đài rồi, Tiểu Đức biết câu chuyện vỡ lở, thế nào cũng gây hoạ, liền nói với Long Dụ hoàng hậu:




- Tiểu yêu chuyến này chắc nguy rồi đây! Vạn nhất mà hoàng thượng truy ra vụ này thì tiểu yêu chỉ còn biết nhờ vào sức che chở của hoàng hậu mà thôi.




Hoàng hậu nghe nói, nét mặt vừa buồn vừa giận, cất tiếng nói:




- Biết làm sao được bây giờ? Chỉ tại con khốn nạn đó nó thấy? Và cũng tại bọn ta không cẩn thận đề phòng mà ra. Ngươi đâu có hiểu được ta với hoàng thượng vốn không thuận đã từ lâu. Giả thử hoàng thượng cho chuyện đó là đúng là thực, thì đến ta cũng chịu, chẳng biết làm sao hơn. E đến cái mạng ta cũng khó thoát nữa là!




Tiểu Đức nghe xong, miệng câm như hến, đứng ỳ ra như một pho tượng đất, mặt thộn hẳn ra. Giữa lúc khó xử này, bỗng một tên tiểu thái giám chạy tới triệu Đức. Long Dụ hoàng hậu biết câu chuyện đã bị phát giác rồi, chỉ còn biết lấy đôi mắt nhìn theo Tiểu Đức, miệng lặng thinh không nói một lời nào.




Tiểu Đức thấy vô phương thoát tội, toàn thân run lên lẩy bẩy, líu ríu theo gót tên tiểu thái giám ra đi về ngả Doanh đài.




Tiểu Đức bước lại gần giường nằm của Quang Tự hoàng đế. Hắn nhìn thấy mặt ngài đầy vẻ căm giận bực tức, vội quỳ xuống, dập đầu, không dám ngẩng đầu lên nữa:




Quang Tự hoàng đế lớn tiếng quát:




- Mi đã làm một việc quá đẹp. Ta khỏi cần phải giảng giải gì cho mi thêm.




Quát xong Quang Tự hoàng đế gọi mấy tên nội giám kéo cổ Đức ra phía ngoài đánh một trăm gậy, tung toé máu đít, tống cổ sang bên cung Thái hậu.




Bọn nội giám lãnh chỉ, kéo cổ Tiểu Đức ra ngoài, đánh đúng một trăm gậy, xong rồi ngồi chờ giấy của hoàng đế. Quang Tự hoàng đế viết bốn chữ "Tiểu Đức vô lễ" vào một tờ giấy rồi sai bọn nội giám cầm tờ giấy đó, đồng thời áp giải tên Tiểu Đức sang bên cung Tây thái hậu.




Lúc này Tây thái hậu được biết tin, liền cho gọi hoàng hậu sang trách mắng một hồi. Bỗng bà thấy bọn nội giám áp tải Tiểu Đức tới, vội truyền lệnh cho hoàng hậu hãy tạm lánh mặt vào phía trong. Tiểu Đức vừa thấy thái hậu, vội quỳ xuống đất, mắt sa lệ, cất tiếng van xin:




- Cầu xin Lão Phật gia tha thứ cho.




Tây thái hậu nói:




- Mi đã tự tay làm chuyện đồi bại thì đến ta cũng chịu. Hiện hoàng thượng đã bảo ta phát lạc. Vậy cung nội này không có cách gì giữ mi lại được nữa cả. Mi nên quay lẹ về nhà, thu xếp khăn gói mà đi đi.




Tiểu Đức chỉ còn biết dập đầu một cái, rồi đứng dậy, chạy đi thu xếp hành trang để xuất cung.




Lại nói Quang Tự hoàng đế trách mắng đánh đòn tên Tiểu Đức xong rồi nhưng lòng giận vẫn chưa nguôi, bệnh thế của ngài vốn đã trầm trọng từ lâu, nay lại trải qua một cơn khủng hoảng tinh thần quá kịch liệt, khiến càng trở nên nguy nan thêm. Từ đấy, bệnh ngài đã chẳng thuyên giảm đi mà càng ngày càng nặng mãi, để đến mùa đông năm đó, ngài chỉ còn lại như một đống xương khô hay như một bó củi khô mà thôi. Thân xác cũng như tinh thần của ngài lúc này đều đã mất gần hết và cái chết coi như đã gần kề.




Thế rồi một hôm, Quang Tự hoàng đế bỗng nhiên biến chứng, ngài đâm ra thở dốc, cuối cùng cứ thở giật từng hồi như hắt ra. Cẩn phi ngồi trông nom bên cạnh hất hoảng đến cực độ một tay cố giữ lấy ngực cho ngài, còn một tay khoát gọi tên tiểu thái giám hầu cận chạy ngay đi phi báo cho Tây thái hậu biết.




Chỉ một lát sau. Tây thái hậu đã cùng viên ngự y bước vội vào cung. Bắt mạch chẩn bệnh một lát, viên ngự y tâu với thái hậu.




- Bệnh tình của hoàng thượng do ở chỗ nguyên khí bị tổn thương, động tới can phong, cho nên thở dốc không chỉ. Thở mãi mà không chỉ, ta nên đề phòng có khi ngất đi đấy.




Một viên ngự y nói vậy, bảy, tám viên ngự y khác xem mạch chuẩn bệnh cũng đều nói thế. Tây thái hậu lúc này đã thấy xốn xang bối rối lắm. Bà bảo Cẩn phi trông nom nhà vua, còn mình thì hối hả chạy về Dưỡng tâm điện triệu tập tức khắc bọn quân cơ đại thần vào ngay đêm đó để nghị sự.




Hồi này, Trương Chi Động đã nghỉ chức, chỉ còn lại có bọn Na Đồng. Bọn đại thần này vào đến cung yết kiến thái hậu, bà tuyên bố bệnh tình của Quang Tự hoàng đế cho họ nghe rồi nói:




- Nếu chẳng may hoàng thượng có mệnh hệ nào, thì biết chọn ai kế vị?




Khanh thân vương Dịch Khuông tâu:




- Theo như trước đây thì đến Phổ Tuấn như vậy là không thể nối ngôi được nữa. Đếm ngón tay ta thấy muốn kế vị Đức Mục tôn nghi hoàng đế, ắt vẫn phải chọn người có chữ lót là Phổ mới được.




Tây thái hậu gật đầu nói:




- Ta đã nghĩ tới điều đó. Trong số người có chữ Phổ trừ con trai Thuần thân vương là Phổ Nghi và con trai Cung thân vương là Phổ Huân ra, là hết. Con của bọn Tải Tuân đã thuộc chi xa, lại còn nhỏ tuổi hơn cả Phổ Nghi. Hơn nữa người như Tải Tuân thực chẳng đáng để trao phó cho đại quyền. Theo ta, thì trong Phổ Nghi và Phổ Huân, hai người ấy nên chọn lấy một. Y ta là như thế, nhưng không biết các vị thân vương nghĩ như thế nào?




Dịch Khuông nghe Tây thái hậu hỏi, vội cúi đầu tâu:




- Đây vốn là việc đại sự quốc gia, tự nhiên đã có Lão Phật gia anh minh quyết đoán, hà tất phải hỏi bọn thân vương có đồng ý hay không đồng ý mà làm gì. Công việc trong tôn tộc, có khác gì công việc ngoài quốc gia, cả hai cũng chỉ là một, xin Lão Phật gia minh xét cho.




Na Đồng cũng tâu lên:




- Lời nói của Khánh vương rất đúng. Y kiến của nô tài cũng y hệt như thế đấy.




Tây thái hậu nói:




- Tuy lời nói đó có lý đấy, song đại quyền vẫn thuộc về hoàng thượng. Ta bất quá chỉ thay thế nhất thời mà thôi. Quyết nhiên lúc này phải là ta hạ lệnh, nhưng trong tương lai chỉ sợ có chuyện xảy ra này nọ đó thôi.




Dịch Khuông vội nói:




- Bất tất phải quá lo xa như vậy. Đến lúc đó, ta hãy giải quyết cũng không muộn.




Giữa lúc Tây thái hậu và bọn đại thần đang còn hội nghị, bỗng một tên nội giám chạy vội vào tâu:




- Hoàng thượng mê đi rồi!




Vừa được tên nội giám chạy đến báo tin cho biết Quang Tự hoàng đế đã mê đi, Tây thái hậu vội vàng cùng bọn Dịch Khuông kéo nhau tới Doanh đài để xem tình trạng hoàng đế ra sao. Nhìn vào thân thể ngài, họ chỉ thấy mặt ngài trắng bệch ra như tờ giấy trắng, đôi hàm răng cắn chặt lại, đôi mắt trợn ngược lên.




Cẩn phi mặt đầy nước mắt vừa xụt xịt khóc vừa lay gọi, Long Dụ hoàng hậu lúc này được báo tin cũng đã chạy tới. Bà nhìn thấy Quang Tự hoàng đế trong tình cảnh như vậy, cũng không khỏi rỏ vài giọt nước mắt.




Tây thái hậu ngồi bên cạnh bảo hai người đừng có hoảng hốt. Bà bảo hoàng thượng đuối sức một lúc sẽ tỉnh lại, chứ không có chi đáng ngại. Một mặt, bà cho một tên tiểu thái giám tức tối đi gọi cả thái y viện tới để chạy chữa. Bọn Dịch Khuông thì ngồi yên lặng tại phía dưới điện Hàm Nguyên chờ đợi.




Chỉ một lát, người ta đã thấy bọn thái y lóc cóc chạy tới, nào dao cầu thuyền thuốc, đầy đủ đồ nghề. Nhưng bọn nội giám sớm đã reo lên:




- Hoàng thượng tỉnh lại rồi! Hoàng thượng tỉnh lại rồi!




Giữa lúc đang mơ mơ màng màng như người đi trong mộng, Quang Tự hoàng đế mở choàng mắt ra, thấy mọi người vây khắp quanh mình, người thì đứng kẻ thì ngồi, bất giác tỏ vẻ lạ lùng bèn hỏi:




- Các người tới đây làm gì vậy?




Cẩn phi ghé sát vào mặt nhà vua khẽ nói:




- Họ tới để hầu hạ bệ hạ đó.




Quang Tự hoàng đế nói:




- Ta khoẻ mà. Hầu hạ làm gì?




Nói đoạn, ngài thở dài một tiếng, quay mình vào trong dỗ giấc ngủ. Tây thái hậu bảo với mọi người:




- Hoàng thượng mê đi vừa mới tỉnh, thần kinh đang thác loạn. Các ngươi không nên nói chuyện với ngài. Cho gọi thái y chẩn mạch cho ngài xem ra sao.




Thế là bọn thái y được gọi lại, chẩn mạch xong, chạy ra phía ngoài hất thuốc, rồi lại chạy vào ngay. Cẩn phi đích thân lo việc sắc thuốc, sau đó đổ cho ngài uống.




Tây thái hậu đợi cho Quang Tự hoàng đế thần sắc trở về nguyên trạng rồi lúc đó mới quay trở về cung. Hoàng hậu và bọn đại thần Dịch Khuông cũng tiến vào cung để vấn an thái hậu rồi mới giải tán, ai nấy về nhà mình.




Quang Tự hoàng đế thấy mọi người đi hết rồi, mới quay mình lại, nhìn Cẩn phi hỏi:




- Bọn họ đi hết rồi ư?




Chỉ hỏi được có mỗi một câu đó, Quang Tự hoàng đế lại đã lên cơn suyễn, tắc họng lại, không thể nói được nữa. Cẩn phi vội nằm sát xuống bên giường, ghé miệng sát vào tai nhà vua mà nói:




- Xin bệ hạ bảo trọng thân thể. Đừng có nói gì, đợi đến khi khỏi rồi hãy trò chuyện.




Quang Tự hoàng đế bèn thò cái tay chỉ có xương và da ra nắm lấy bàn tay ngọc ngà của Cẩn phi rồi nói qua hơi thở khò khè:




- Bệnh tình của ta xem ra khó lành được rồi. Hôm nay tá muốn nói vài câu tối hậu với ngươi.




Cẩn phi nghe đến đây, bỗng đôi dòng lệ chảy ra, ướt cả vạt áo phía trước ngực. Quang Tự hoàng đế khoát nhẹ bàn tay, như ra hiệu thôi đừng khóc nữa, rồi nói tiếp:




- Theo ý ta lúc này thì chả còn gì để phải lưu luyến nữa. Khi đôi mắt nhắm lại, thế là hết, hết sạch. Tiếc thay! Con nối dõi ta không có. Quyền bính đều nằm trong tay mẫu hậu. Khi ta chết rồi, không biết ai là người kế thừa đại thống? Ta thực chưa từng biết. Mà cũng chẳng can dự gì đến ta. Ta cứ im lặng, chẳng nói một câu nào là hơn, cứ để cho mọi việc trôi qua đến đâu thì đến. Ấy thế nhưng, dù sao, ta cũng không thể bình thản được trước mọi chuyển biến. Ta nhớ lại từ khi bước vào cung để thừa kế đại thống, tính đến nay đã hơn ba mươi năm rồi. Suốt trong thời gian lâu lắc này, tuy ta không có công trạng gì nhưng nói cho cùng thì cuộc đời ta cũng đã được an bài. Đến như chuyện quyền chính được rồi mất đó, thực chỉ tại ta quá nhu nhược mà ra. Buồn thay cho ta là từ khi bước chân vào cung, trong không có ai là người tâm phúc, ngoài không có ai là người trung lương phò trợ, muốn phấn phát tinh thần mà làm việc đấy nhưng lại không biết hoạt động vào đâu. Năm Mậu Tuất, có cuộc binh biến. Ta vốn tưởng đem cựu chế mà cải cách một phen, chỉnh đốn lại chiêng trống, phóng động lên một phong trào, huy trương lại nhuệ khí, khiến cho mọi người hăng hái canh tân lại xứ sở. Không ngờ mẫu hậu không lượng tính, giữa đường đánh quy ta, biến ta thành một loại tội tù không hơn không kém. Lần đả kích ta này, quả thực khiến ta vô cùng chán nản. Bởi thế, từ đó ta đâu có còn tha, thiết đến chính sự nữa. Bất luận là chuyện trong hay việc ngoài, ta có thèm mở miệng ra nói một lời nào nữa đâu. Giả thử lúc ban sơ đó, mẫu hậu có nghe theo lời ta, thực hiện theo kế hoạch của ta thì quốc gia này đâu có đến nỗi như ngày nay. Về sau, năm Canh Tý, trải qua một cuộc loạn quyền phỉ, chạy lên Tây An rồi lại trở về, lúc đó mẫu hậu mới tỉnh ngộ cải quả, thì sự đã trễ rồi. Tóm lại mà nói, giang sơn nhà Thanh ta chẳng bao lâu nữa sẽ bị người khác cướp mất đó thôi.




Quang Tự hoàng đế nói đến đây, lại ho rốc lên một hồi.




Cẩn phi nuốt lệ nói:




- Bệ hạ nói ít thôi!




Đợi cho hết ho, dễ thở, Quang Tự hoàng đế thu hết tàn lực lại để cố nói cho được lớn:




- Nay không nói, còn đợi đến lúc nào nữa?




Quang Tự hoàng đế khựng lại một chút để lấy hơi, rồi tiếp để dặn dò Cẩn phi:




- Ta có câu nói khẩn yếu này, muốn nghe hay không, tuỳ ý họ. Nếu ngươi không nói ra, ta sê có tội đối với tổ tiên. Sau khi ta mất rồi, người kế vị chưa được định rõ, trong số mấy người thôi. Song Tải Tuân là người kém tháo vát, nếu giao phó cho đại chính e có chỗ chưa đủ, mất nước là cái chắc! Đến Phổ Tuấn, người đã từng lập làm Đại A Kha, Tuấn hết sức ngu ngốc cầm quyền làm sao được chứ? Lại đến Phổ Nghi? Nghi vào thừa kế đại thống e rằng quá con nít. Chẳng biết khi trưởng thành, Nghi sẽ ra sao. Một đứa con nít lâm trào, cần phải có một người lớn nhiếp chính. Mà cái người nhiếp chính ấy phải chăng là Thuần thân vương Tải Thuần? Hai người có cái tình phụ tử với nhau, tất nhiên việc phụ chính sẽ được tận tâm kiệt sức khỏi phải nói. Song Tải Thuần lại phải cái nhu nhược mà võ đoán. Thuần cũng chẳng phải là người an bang định quốc, lỡ gây ra chuyện bất hảo, ta e rằng quốc gia này sẽ đi đứt do tay y. Theo ý kiến ta thì cái đám Phổ này đều còn nhỏ cả, cần phải có người nhiếp chính, trong khi chúng chỉ làm bù nhìn thôi. Như vậy, thì chi bằng chọn một người kế vị lâm chính ngay trong tầng lớp của ta có hơn không? Chẳng biết mẫu hậu quyết định ra sao?




Trong lúc nói mấy câu trên, Quang Tự hoàng đế mắt nhìn thẳng vào mặt Cẩn phi. Rồi đến khi nói xong, đôi mắt ngài như đứng hẳn lại, có ý chờ đợi một câu đáp của Cẩn phi. Hiểu được ý đó của nhà vua, Cẩn phi bèn gật đầu nói:




- Để thần thiếp tâu lại cho thái hậu rõ.




Nghe được vậy, Quang Tự hoàng đế se sẽ gật đầu rồi nhắm dần mắt lại. Hơi thở của ngài lúc này lại trở nên gấp gáp hơn trước. Cẩn phi cho rằng bệnh tình của ngài xem ra lành ít dữ nhiều. Nàng một mặt thút thít khóc, một mặt nằm nép xuống cạnh giường. Nhân lúc thấy Quang Tự hoàng đế mở choàng mắt ra, nàng ghé vào tai ngài khẽ hỏi:




- Bệ hạ có thấy đỡ phần nào không?




Quang Tự nghe hỏi chỉ khe "ừ" một tiếng và thêm một cái gật đầu như ra hiệu. Cẩn phi lại hỏi tiếp:




- Ví thử bệ hạ có thực mệnh nào, thì bảo thần thiếp phải làm sao?




Nghe xong câu hỏi của Cẩn phi, Quang Tự hoàng đế nhìn thẳng vào mặt Cẩn phi, ngừng một lát rồi mới thì thào nói:




- Ngươi tất phải lo. Khi ta còn sống, bọn chúng tác oai, tác phúc. Rồi đây khi ta chết rồi, một triều đại mới ắt sẽ có một quần thần mới. Bọn chúng cũng chỉ đối với ngươi vậy thôi. Lúc đó, ta e rằng chúng còn phải lo cho mình chưa xong chứ còn lấy thì giờ đâu mà chống đối với ngươi nữa. Ngươi chắc chắn lúc đó còn sướng hơn bây giờ nữa là khác.




Cẩn phi còn muốn hỏi nữa, nhưng Quang Tự hoàng đế xem ra thần trí đã mơ hồ, không nhận định rõ được mọi vật nữa. Cẩn phi thấy hình sắc ngài có vẻ biến thái nhiều rồi, cho nên không dám rời khỏi bên ngài.




Cho mãi đến hửng sáng, Quang Tự hoàng đế thực không còn có thể nói nữa. Ngài chỉ còn biết lấy tay chỉ vào miệng mà thôi. Giờ Thìn, Long Dụ hoàng hậu chạy tới. Vừa nhìn thấy bà, Quang Tự hoàng đế ngước mắt lên vài lượt, rồi bỗng nắm tay lại đấm vào đầu giường mấy cái, tựa hồ như có ý tức giận lắm.




Long dụ hoàng hậu vừa gạt lệ, vừa se sẽ hỏi Cần phi về bệnh tình của hoàng đế. Một lát sau, thái y viện lại đến để chẩn mạch cho ngài. Tuy bề ngoài nói rằng bệnh tình của Quang Tự hoàng đế còn có cơ hội vãn hồi được, nhưng thái y viện đã tâu nhỏ với Tây thái hậu là nên chuẩn bị chuyện hậu sự cho nhà vua đi là vừa.




Lại nói Tây thái hậu ngay từ hôm qua sau khi ở Doanh đài về, bà bỗng cảm thấy khó ở. Tuy đã được thái y chẩn mạch và hết thuốc, nhưng bệnh tình của bà đã từ nhẹ chuyển sang nặng. Do đó, bà không có thể gắng gượng đi đây chạy đó. Cho đến khi nghe nói Quang Tự hoàng đế bệnh nguy, bà tính đích thân mình tới Doanh đài nhưng bị bọn nội giám cung nhân khuyên can nên lại thôi,: mà chỉ sai Long Dụ hoàng hậu qua thăm để xem tình thế bệnh trạng ra sao mà thôi.




Buổi chiều hôm đó, Quang Tự hoàng đế chỉ còn lại có chừng ba phần khí lực. Tây thái hậu tuy lúc đó đầu choáng mắt hoa nằm quỵ tại một nơi rồi, nhưng vẫn còn nghĩ được cách lo liệu hậu sự cho nhà vua. Bà tức tốc truyền lệnh cho triệu ngay bọn quân cơ đại thần như Na Đồng, Thế Tích vào cung để nghị sự.




Lúc này Khánh vương Dịch Khuông đã đi yết Đông Lăng cho nên không có mặt tại triều. Bọn Na Đồng, Thế Tích vào cung thấy Tây thái hậu đầu buộc một cái khăn xanh biếc đang ngồi tựa vào thành giường. Vừa thấy bọn Na Đồng vào, bà liền cất tiếng hỏi:




- Ta định lúc này lập sử đây. Bọn ngươi có ý kiến gì không?




Thế Tích nghe hỏi, vội tâu:




- Hoàng thượng thánh thể không được an. Thái hậu rất nên quyết định ngay đại kế lúc này.




Tây thái hậu sẽ gật đầu nói:




- Ta định chọn một vương tử trong số các thân vương cận chi. Các ngươi nghĩ sao?




Na Đồng lặng thinh, không nói, Thế Tích cúi đầu tâu:




- Ý kiến chọn sử của thái hậu chính như cái tâm của Văn vương chọn hiền. Đấy là việc vô cùng khẩn yếu, và cũng còn là việc vì xã tắc đời sau mà mưu tính. Hiện nay, quốc gia gặp phải lúc hết sức đa sự, thiết tưởng thái hậu cần phải chọn người lớn tuổi mới có thể lâm chính độc lập, mong hữu vọng ở tương lai, không đến nỗi phải giao quyền cho người tá thần. Ý kiến của thần là như thế.




Tây thái hậu nghe xong lời tâu, giơ thẳng cánh tay đập xuống bàn đánh thình một cái, mắt trợn ngược lên, miệng quát lớn:




- Lập sử là một chuyện trọng đại. Ngươi dám nói bậy nói bạ như vậy à?




Thế Tích hoảng hồn bạt vía, vội dập đầu như tế sao, một lúc lâu mà chưa thấy y thôi. Tây thái hậu lại ngó về phía Na Đồng mà nói:




- Còn ngươi? Ý ngươi như thế nào?




Na Đồng bị hỏi, mặt tái xanh lại, tự nghĩ dại gì mà nói khác, để lại phải dập đầu đến trớt trán như Thế Tích. Nghĩ vậy Đồng sẽ cất tiếng đáp:




- Chọn sử là một việc lớn của quốc gia. Xin thái hậu quyết định.




Tây thái hậu chậm rãi nói:




- Nếu vậy, Phổ Nghi, con Thuần thân vương, có được không? Nghi chỉ phải cái con nít quá. Bởi thế, cái người phò tá tất phải chọn lựa một cách thận trọng.




Na Đồng biết Tây thái hậu đã quyết định xong, có tranh luận thêm cũng vô ích. Do đó, Đồng chỉ còn biết thừa thời gian mà tâu thêm vào:




- Dạ đúng thế! Thuần thân vương có tình phụ tử, hơn nữa, còn hiền minh hơn người, rất nên cử để phò tá.




Tây thái hậu nghe câu nói gần với ý mình, bèn nói tiếp:




- Đã như thế thì người nên đi thảo chiếu thư đi rồi đem lại đây!




Na Đồng cúi đầu tâu:




- Khánh thân vương đi Yết Lăng chưa về. Ngày mai quyết phải tới đây. Lúc đó, bọn đại thần sẽ cùng nhau thương nghị và đệ trình thái hậu.




Tây thái hậu suy nghĩ một lát rồi khoát tay một cái, bảo cả bọn rút lui.




Qua ngày hôm sau, Khánh thân vương hồi triều. Bọn Na Đồng, Thế Tích thuật lại những lời nói của thái hậu cho Khánh thân vương nghe. Dịch Khuông nghe qua thở dài đến thượt một cái nói:




- Trời ơi! Làm sao mà lại lập một thằng bé con như thế kia? Thời thế hiện nay, quốc gia đa sự, cần phải lập một người lớn mới phải chứ?




Thế Tích vội nói:




- Ấy bọn tôi cũng nói như vậy đó. Không ngờ Thái hậu vì thế mà cả giận đấy.




Lại nói bọn Na Đồng thảo chiếu xong, đưa cho Dịch Khuông mang vào cung. Cả bọn còn dặn dò Khuông là trước mặt thái hậu cố tìm cách can ngăn thế nào để có thể huỷ bỏ được cái thành nghị trước đó là tốt, để mong lập được một người lớn tuổi.




Dịch Khuông ừ hữ luôn mồm, rồi chạy vội vào cung yết kiến thái hậu. Lúc Khuông xin vào trước giường để tiến kiến, Tây thái hậu cũng đang trong tình trạng hôn mê bất tỉnh.




Bởi thế Khuông chưa được vào ngay mà còn phải ngồi đợi bên ngoài một lúc lâu.




Bỗng tên nội giám thò đầu ra ngoài cửa sổ lên tiếng ra hiệu cho Khuông:




- Lão Phật gia tỉnh rồi đấy!




Được thông báo như vậy, song trước hết phải chờ bọn nội giám và cung nhân lăng xăng đi lại, kẻ đệ nước, người dâng trà, rối tinh lên mất một lúc rồi mới thấy có lệnh triệu Dịch Khuông. Khuông rón rén bước tới bên giường Tây thái hậu cúi đầu hành lễ, xong Tây thái hậu hỏi:




- Ngươi đã về rồi đấy ư! Việc lập sử, bọn chúng đã cho ngươi biết rồi chứ?




Dịch Khuông vội tâu:




- Nô tài đã biết cả rồi. Hiện chiếu đã thảo xong và đem theo đây, xin Thái hậu ngự giám:




Tây thái hậu tiếp lấy tờ chiếu, đọc một lượt, rồi nhìn Dịch Khuông mà nói:




- Ý kiến ngươi như thế nào?




Dịch Khuông vốn giảo hoạt, tinh ranh, xưa nay chỉ một màu tâng bốc, nịnh nọt Tây thái hậu để thủ lợi, nên khi thái hậu hỏi vậy thì Khuông đã chẳng có can gián gì, trái lại còn im lặng, tỏ ý đồng tình.




Tây thái hậu coi như không có ai có ý kiến gì chống đối nữa, bèn bảo Dịch Khuông:




- Thế là được rồi! Ngươi có thể hạ chiếu, bố cáo thiên hạ ngay đi!




Dịch Khuông lãnh chi bước ra khỏi cung, họp cùng bọn Na Đồng phát chiếu, bố cáo khắp thiên hạ việc lập sử. Sau đó Khuông lại chạy vào cung phúc chỉ, rồi quay ra triệu tập nội ngoại thần cùng tuyên đọc chiếu thư. Mặt khác, Khuông giao cho Thế Tích tới phủ của Thuần thân vương, triệu Tải Phong vào cung.




Chẳng bao lâu, người ta đã thấy Tải Phong cùng đi với Thế Tích vào cung yết kiến thái hậu, Tây thái hậu bảo Thuần thân vương:




- Ta đã lập con ngươi làm sử quân. Y ngươi như thế nào?




Tải Phong dập đầu tâu:




- Nô tài xin hoàn toàn nghe lệnh của Thái hậu.




Tây thái hậu bảo tiếp:




- Con ngươi còn quá nhỏ, không thể không có người chỉ bảo dạy dỗ. Ta đã sai Thế Tích làm thái phó, còn ngươi cũng nên đồng tâm phò tá, chớ phụ lòng ta.




Thuần thân vương Tải Phong tạ ơn lui ra ngoài. Bọn đại thần gồm đủ Mãn, Hán bưng chiếu thư tới phủ Thuần thân vương để đón rước Phổ Nghi vào cung. Không ngờ bà Thái phúc tấn của Thuần thân vương ôm ghì lấy Phổ Nghi, quyết không cho mang đi.




Bọn đại thần đôi ba lần khuyên giải, chỉ thấy bà Thái phúc tấn khóc rống lên bảo:




- Bọn chúng đã giết chết con ta rồi (tức Quang Tự), nay lại tới mang cháu ta đi để giết nữa sao? Ta quyết không bao giờ cho như thế!




Bà Thái phúc tấn vốn là vợ của Lão Thuần vương Dịch Hoan, mà cũng là em gái của Tây thái hậu. Quang Tự hoàng đế chính là con trai của Lão Thuần vương, anh em với Thuần vương Tải Phong. Nếu Phổ Nghi vào kế vị, thì tức là kế vị ngai vàng của chú ruột mình.




Hiện tại, Thái phúc tấn đã không chịu, tự nhiên bọn quần thần thúc thủ vô sách. Phải đợi mãi tới lúc Thuần vương Tải Phong từ trong cung trở về phủ, rõ chuyện, biết bà thương tiếc cháu nội, bỗng tự nhiên rơi lệ. Thuần vương gạt nước mắt bẩm cáo với Thái phúc tấn là chỉ dụ không thể trái nghịch được sau đó, còn khuyên giải một hồi lâu mới có kết quả.




Thái phúc tấn đến lúc này mới biết mình bất lực, đành phải bế Phổ Nghi ra, đặt ngồi trên xe, khóc rống lên một hồi, rồi mới gạt lệ quay vào trong phủ.




Bọn vương công đại thần đưa rước Phổ Nghi kéo thành một đoàn dài y như một đàn ong. Khi đã vào trong cung, chân chưa dừng được một phút, cả bọn đã thấy nội giám hối hả chạy ra phi báo là Quang Tự hoàng đế ở Doanh đài đã băng hà.




Tây thái hậu được tin Quang Tự hoàng đế chết rồi, thở dài một tiếng, quay mình lại, nằm ngay trên giường một lúc lâu mới ngồi dậy. Khi đó, bọn vương công đại thần đã tề tựu đông đủ ở phía trước giường bà để chờ đợi chỉ dụ. Tây thái hậu bèn sai thảo di chiếu. Mặt khác, bà truyền lệnh cho bọn họ trước hết đưa Phổ Nghi lên ngai vàng để chính vị, sau đó Khánh thân vương phải bố cáo vương chiếu cho thiên hạ xa gần đều biết. Trên tờ di chiếu bà không quên cho ghi điều quan trọng nữa là:




"Thuần thân vương Tải Phong tạm thời làm Chính sự nhiếp chính vương, chiếu theo lệ phụ chính của Duệ thân vương khai quốc. Với chức vụ này, Nhiếp chính vương sẽ quyết định hết tất cả mọi việc trọng đại, sau đó mới trình lên ngự lãm và đem thi hành".




Như thế mọi việc tiên quyết đã xong. Đến việc tang lễ Quang Tự hoàng đế. Bọn đại thần, mỗi anh một việc, chạy đi như đèn kéo quân để lo liệu đủ thứ, đủ bề. Nhưng giữa lúc rối tinh lên này, bỗng có tin báo Lão Phật gia bệnh nguy.




Lệnh triệu bọn đại thần tiến cung ngay, để chịu di mệnh.




Tin động trời này loan truyền đi nhanh như điện. Cung nội đã loạn rồi, giờ còn loạn thêm. Long Dụ hoàng hậu, Thọ Xương công chúa cùng cả bọn đại thần thân vương hớt hơ hớt hải chạy về cung Tây thái hậu. Họ thấy Tây thái hậu đôi mắt nhắm nghiền, một lời cũng chẳng nói, cả bọn rón rén lại gần rồi đứng im chờ đợi. Long Dụ hoàng hậu đứng sát ngay bên cạnh giường được coi như gần nhất.




Bỗng Tây thái hậu mở choàng mắt ra hỏi:




- Phổ Nghi đã chính vị chưa?




Long Dụ hoàng hậu ghé sát gần lại đáp:




- Chính vị hôm nay rồi. Và cũng đã bố cáo cho thiên hạ biết rồi.




Tây thái hậu im lặng, chẳng biết bà có nghe câu đáp của hoàng hậu hay không. Người ta phải đợi một lúc nữa mới lại thấy bà ấp úng nói lên mấy câu sau đây:




- Chính trị từ nay về sau, ngươi nên cùng với nhiếp chính vương bàn tính rồi hãy thi hành.




Tây thái hậu lại triệu nhiếp chính vương Tải Phong bước lại gần giường, thì thào bàn:




- Ngươi đã chịu trọng nhiệm nhiếp chính vương. Đối với việc quốc gia đại sự, ngươi nên theo ý chỉ của Long Dụ hoàng hậu mà thi hành, không được độc tài, khiến có thể xảy ra tai hoạ về sau.




Tải Phong cúi đầu chịu mệnh. Tây thái hậu có ý muốn nói thêm mấy câu nữa, nhưng đờm đã ào ạt kéo lên bà khiến cho bà nghẹt lại, đầu lưỡi cũng tự nhiên cứng ngắc.




Lời nói của bà vì vậy mà trở thành O ề, nghe không thấy rõ nữa. Bà hình như tức tối lắm, cho nên chỉ thấy hai tay nắm lại rồi cứ mặt giường mà nện xuống thình thình.




Tình trạng đó kéo dài một lúc lâu. Bọn đại thần hầu hạ bên giường đứng im phăng phắc, đợi chờ, lo lắng, nhưng mọi người bỗng thấy Tây thái hậu co giò nhảy bổng một cái ngược lên trên giường, trợn trừng đôi mắt trong tình trạng thực vô cùng đáng sợ.




Long Dụ hoàng hậu vội vàng chạy lại, hợp lực với bọn thái giám, cố giữ lấy bà. Bọn họ có đến ba, bốn người ôm giữ, ấy thế mà Tây thái hậu vẫn nhảy cỡn lên được. Bà lắc bên này, bên kia, tung người lên, dãy dụa, chẳng khác gì một con khỉ cựa dây để mong thoát khỏi khi biết rằng tử thần đang giữ chặt lấy mình.




Bà dãy dụa như vậy một lúc lâu, mới duỗi đôi chân thẳng ra và từ từ im lặng. Trạng thái đó tỏ ra trong ngực, trong ruột bà có một sự đau đớn khủng khiếp, không thể chịu nổi, nằm không được mà ngồi cũng không, chi muốn cựa quậy, đấm đạp, nhưng sức kiệt lực cùng.




Về trạng thái khủng khiếp này, về sau bọn nội giám có kể lại là sức lực của Tây thái hậu lúc bấy giờ có thể nói còn mạnh hơn bất cứ một người nào khác. Chuyện lạ này là tại vì lúc bình thời không bệnh tật, Tây thái hậu rất ham tập luyện quyền thuật. Mỗi ngày, cứ vào lúc sáng sớm tinh mơ, vừa thức dậy, bà thường ngồi trên giường luyện một hồi Bát đoạn cẩn công phu. Khi bà luyện xong, nội giám đệ lên một chén sữa người để bà uống. Uống sữa xong, bà lại ngồi tĩnh toạ một hồi, uống vài hớp nước sâm Cao Ly, rồi mới mặc áo đứng dậy. Sau khi súc miệng, rửa mặt bà lại còn ăn một bát yến sào, xong xuôi cả rồi mới lững thững bước vào lâm triều.




Từ khi ở Tây An hồi loan, ngày nào bà cũng theo lệ đó mà tập thành thói quen. Bởi thế thân thể của bà kháng kiện dị thường. Trước khi chết bà chỉ cảm mạo xoàng, thực không thể nặng đến chết được. Ngay cả trước khi Quang Tự hoàng đế chết một hôm bà cũng còn đủ sức để phát di chiếu, đọc lại do chính mắt mình, hình sắc vẫn thư thái ung dung chẳng có gì nói được là sắp chết cả. Ấy thế mà quanh quẩn chỉ có hai ngày bà đã lâm bạo bệnh. Thật là một sự lạ. Do đó, có người nghi là bà đã uống thuốc độc chết. Lại cũng có kẻ cho là bà đã nuốt vàng mà chết.




Tây thái hậu đã chết. Thân thể bà từ xanh mét tự nhiên biến ra màu đen tím, có người cho thế là bà đã uống thuốc độc mà chết. Thực ra, câu nói đó chỉ là do người đời ghét bà mà gán cho như thế để bõ ghét đó thôi. Nguyên do về cái chết của bà chỉ là do nghiệt căn của a phiến (thuốc phiện) chứ chẳng phải cái gì khác.




Số là năm Nhâm Tý, đời vua Đạo Quang, năm hải khẩu bị ngoại quốc bắt mở toang ra cho bọn ngoại quốc ra vào buôn bán, thì lệnh cấm a phiến cũng phải dẹp. A phiến từ Ấn Độ sang hàng tầu lớn. Người Anh tha hồ chở vào để móc túi người Trung Quốc, khiến từ viên quan người Hán cũng như người Mãn cho đến những tay phú hộ, những bậc nho sinh, tất cả đều phải coi thuốc phiện như chính cái mạng sống của mình.




Tới năm Mậu thân đời Quang Tự, triều đình nhà Thanh xét thấy a phiến có hại lắm, bèn lại quyết định cấm. Tây thái hậu thấy các thân vương giòng tộc Mãn, hút thuốc phiện quá nhiều, sợ rằng nhất thời không thể thực hiện được, bèn nghĩ ra một cách là lấy mình làm gương. Thế là tự thân mình cai trước. Ai ngờ chất thuốc đã ngấm sâu, muốn ngay tức khắc trừ đi cũng đâu có được. Cho nên chỉ hôm sau, bà tự nhiên thấy trong người vô cùng khó chịu. Lúc Quang Tự hoàng đế lâm trọng bệnh cũng là lúc Tây thái hậu giới yên, muốn làm gương cho kẻ khác. Lần đầu vua Quang Tự hôn mê, Tây thái hậu còn có thể cưỡng được. Về sau, đến khi được tin nhà vua đã hắt hơi thở chót ra rồi thì bà cũng đã nằm liệt giường, không còn ngồi dậy được nữa. Và cũng vì thế cho nên bà mới sai Long Dụ hoàng hậu tới thăm bệnh tình của Quang Tự hoàng đế thay mình.




Thế là Quang Tự hoàng đế cùng Tây thái hậu, cả hai đều về chầu trời, chỉ cách nhau trong vòng có hai ngày. Tang tóc trọng đại đó đã xảy ra cho nhà Thanh đúng vào năm Mậu Thân. Tin tức bay đi lẹ như tên bắn. Bọn thân vương, đại thần vội vàng đưa con trai Thuần thân vương là Phổ Nghi lên ngôi, tôn Quang Tự hoàng hậu lên làm Long Dụ hoàng thái hậu, Thuần thân vương làm nhiếp chính vương.




Mọi việc trọng đại này được thu xếp xong, lúc đó mới nói tới việc tang ma. Từ việc thay bậc đổi ngôi đến việc tang ma, rồi biết bao nhiêu việc khác làm cho chốn cung đình trước đây vắng vẻ trang nghiêm bao nhiêu thì ngày nay ồn ào náo nhiệt bấy nhiêu.




Thây ma Tây thái hậu nằm ở nơi ngoại điện, một bọn hơn mười anh nội giám tay cầm nhang cháy, khói toả nghi ngút, quỳ lạy chung quanh để giữ xác. Nếu có kẻ tò mò để ý thì sẽ thấy xác Tây thái hậu hôm đó chỉ đắp có mỗi một tấm vải vàng dài, trong ánh nhọt nhạt của ngọn đèn dầu le lói.




Qua ngày hôm sau, mãi tới trưa, người ta mới thấy có mười mấy chú sư Lạt ma, đầu trọc lốc, mặt lầm lỳ, uể oải bước vào điện để lo việc tụng kinh niệm Phật, siêu độ vong linh cho thái hậu.




Những bát nhang lúc này mới được hỏi tới. Những cái lư hương cao nghều nghệu bắt đầu nhả khói. Rồi những tiếng nam mô lúc dài lúc cụt được rên rỉ trong cung cấm thâm nghiêm.




Lúc sinh thời, Tây thái hậu oai quyền hống hách như thế nào, vậy mà nay, mắt vừa nhắm lại, hai chân vừa duỗi, tình cảnh thực không sao tả xiết được cái thê lương ảm đạm. Phải chăng đây đã là một cái gương cho những kẻ hăm hở chạy theo bả vinh hoa, cong đuôi tìm thế lợi.




Lại nói Long Dụ hoàng hậu, sau khi nhận di huấn của Tây thái hậu, cũng bắt chước bà cô mình buông rèm nhiếp chính, dự hẳn vào việc triều đình, chẳng thèm úp mở gì hết.




Còn nhiếp chính vương Tải Phong cũng được lời dặn dò của Tây thái hậu lúc lâm chung, tuân theo mệnh lệnh của Long Dụ thái hậu mà hoàn toàn phục vụ cho bà hơn là cho dân cho nước. Do đó, bất luận gặp một việc khẩn yếu nào, Phong cũng đều lon ton chạy tới thỉnh mệnh của bà ta.




Còn bọn vương công đại thần, lúc Tây thái hậu lâm chung cũng đã được dặn dò kỹ lưỡng, cứ việc làm theo như cái máy.




Trước hết họ lập Phổ Nghi lên làm sử quân, rồi đưa Phổ Nghi lên ngai vàng để chính vị hoàng đế, đổi niên hiệu Quang Tự là Tuyên Thống nguyên niên, đại xá tù tội khắp toàn quốc.




Người cầm vận mạng Trung Quốc lúc này chính là Long Dụ hoàng hậu. Lên ngôi thái hậu rồi, bà bèn nắm hết quyền bính vào tay, giải quyết bất cứ việc chính trị nào dù to dù nhỏ, chẳng đề cho bết cứ ai xen vào. Bởi thế Tải Phong tuy làm đến nhiếp chính vương mà đại quyền chẳng bao giờ có ở trong tay dù chi một ngày. Phong quả thật chỉ là một loại nhiếp chính bù nhìn không hơn không kém, có danh mà chẳng có thực. Chưa hết, Long Dụ thái hậu ngẫu nhiên có chuyện không hợp ý với Tải Phong tức thì cho gọi ngay Phong vào cung, trước là buộc tâu bày rành rọt, sau là nghe bà la rày quở trách. Chính vì vậy, cho nên giữa Long Dụ thái hậu với Tải Phong không thể nào không có chuyện bực bội chán chường lẫn nhau, nhất là đối với Phong. Chính sự bên trong, cũng như bên ngoài vì sự lủng củng này mà bị ảnh hưởng lây rồi dần dần đi tới chỗ đổ nát hư hoại.




Nếu đem so sánh Tây thái hậu và Long Dụ thái hậu, ai cũng đều thấy rằng: Tây thái hậu có tài nhưng vô đức, còn Long Dụ thái hậu đã chẳng những vô đức lại còn bất tài nữa.




Tài của Tây thái hậu có trăm ngàn vạn triệu thì Long Dụ thái hậu hoạ chỉ có được một vài. Ấy thế mà bà ta dám bắt chước Tây thái hậu cho bằng được, cũng buông rèm nghe chính, cũng bắt hết các thân vương, các đại thần phải quỳ mọp trước mặt mình để nghe chỉ, nghe lệnh.




Long Dụ thái hậu bắt chước Tây thái hậu sủng ái tên thái giám Lý Liên Anh, bèn nghĩ tới chuyện tái đưa tên nội giám thân tín trước đây của mình bị Tây thái hậu đuổi cổ ra thuở nọ vào cung để làm tay chân mắt mũi cho mình. Tên nội giám đó chính là Tiểu Đức Trương.




Nghĩ vậy rồi, bà vội cho người ra ngoài tìm cho bằng được Tiểu Đức Trương vào. Biết bao bùi ngùi, biết bao mừng rỡ, bà cắt đặt ngay cục cưng của mình lên chức Nội vụ tổng quản.




Giao cho chức này rồi, bà mới bảo ngầm Tiểu Đức giữ cái vai trò mật thám cho bà, trước tiên phải điều tra tường tận mọi hành động của nhiếp chính vương và báo cho bà hay. Tiểu Đức Trương chuyến này có gió tha hồ phất cờ. Hắn xun xoe chạy vạy, hết đông sang tây, vào cửa này ra cửa nọ, tự biến thành một con chó săn vô cùng đắc lực cho Long Dụ thái hậu. Thế của hắn cũng từ đó trở nên lớn không biết chừng nào mà tưởng. Chỉ trong có mấy ngày thôi, Tiểu Đức bỗng to phồng lên như một Đại Đức.




Tiểu Đức của Long Dụ thái hậu nào có thua gì Lý Liên Anh của Tây thái hậu. Long Dụ thái hậu thấy vườn Di Hoà phong cảnh quá cũ, quá quen, không thích nữa, bèn nảy ra ý mới làm một cái vườn khác tân kỳ hơn. Tiểu Đức đánh hơi được ý kiến này, vội chạy ra ngoài kinh thành tìm một bọn kiến trúc sư vẽ sơ đồ nào điện nọ, nào cung kia, nào lầu này, nào gác nọ… để trình lên thái hậu.




Về việc này, Tiểu Đức chạy mất đến mười ngày, sau đó vào tâu với Long Dụ thái hậu:




- Nô tài đã tính toán xong xuôi cả, chỉ còn phải tìm một khu đất nữa là có thể khởi công. Hiện nay, nô tài tìm một khu đất toạ lạc tại phía đông Ngự hoa viên rất đẹp. Hồi sinh thời vua Đức Tông ngài nghe bọn thầy địa lý nói khác, không chịu cho cất nhà phá cửa gì nơi đây. Theo thiển ý của nô tài thì chuyện đất cát long mạch của mấy anh địa lý nọ chỉ là mê tín tào lao, tin làm sao được. Nếu tài khu đất này mà thái hậu cho xây cất một khu hoa viên tối tân thì tuyệt biết chừng nào! Bốn bên có ao hồ vây quanh, lại có cả suối, cả khe đưa nước từ núi Ngọc Tiến về khiến nước ở các nơi lưu thông được với nhau. Hoa viên này phía trên nếu thái hậu lợp toàn bằng pha lê nữa, thử hỏi có phải là một toà Thuỷ Tinh cung đệ nhất thế giới không? Còn gì đáng kiêu hãnh hơn khi thái hậu có một cái cung gọi là Thuỷ Tinh cung?




Long Dụ thái hậu nghe Tiểu Đức hót, trong lòng khoái sướng lạ thường, nhất là khi bà nghĩ tới lúc hoàn thành rồi, nằm vuốt ve "cục cưng" của bà thì còn gì bằng. Bà vội ra lệnh khởi công ngay. Bà còn bảo Tiểu Đức chọn một số hoạ sư để đưa vào cung vẽ tranh. Bất luận chỗ nào tại cung này, đặc biệt là ở chung quanh tường bà đều cho vẽ cả, màu sắc vô cùng lộng lẫy. Nói đến vấn đề trần thiết bày biện, thì ôi thôi, tất thảy mọi thứ đều phải làm bằng pha lê cho bà. Ở chính giữa cúng, bà cho đặt một trái cầu lớn bằng pha lê trong vắt, rồi gài vào bên trong một trăm chiếc đèn cũng bằng pha lê, sáng quắc. Cứ mỗi buổi tối đến, trăm ngọn đèn được thắp lên, ánh lửa sáng trưng như ban ngày, rực rỡ khắp trong ngoài, chẳng khác chi thế giới thuỷ tinh chút nào.




Toà Thuỷ Tinh cung này khởi công từ năm Tuyên Thống nguyên niên, làm mãi cho tới mùa đông năm thứ hai mới được chừng một nửa. Long Dụ thái hậu tự tay đề tên cho cung này bốn chữ "Nhật linh chiểu hản". Bà lại còn bảo Tiểu Đức trùng tu lại cái mật thất trong cung nội để cho bà "dùng".




Cái mật thất này có chừng hơn mười căn, vô cùng bí mật. Đây là công trình của Tây thái hậu. Những tên nội giám tầm thường không bao giờ có thể biết được. Mật thất này chỉ có mỗi một cửa ra vào. Mà cửa ra vào này lại chỉ có mỗi một mình Tây thái hậu biết được mà thôi. Ngoài cái cửa duy nhất này ra, không còn có gì khác hơn là tường với tường.




Năm Canh Tý, bát quốc liên quân đánh phá kinh thành, Tây thái hậu hạ lệnh cho mấy tên nội giám khuân hết tất cả những đồ bảo vật vào trong mật thất. Rồi sau đó, dìm tất cả mấy tên nội giám này xuống ao cho chết đuối hết, mong tuyệt khẩu, khỏi bị bộ. Nhờ kế đó và nhờ mật thất đó, khi Tây thái hậu trở về cung năm Tân Sửu, tất cả mọi bảo vật tại nơi đây vẫn còn nguyên, chỉ mất những đồ đạc ở nơi khác mà thôi.




Nhưng sau khi Tây thái hậu mất rồi, mật thất này không còn bí mật được nữa. Hon nữa, đã lâu năm không có ai ở nơi đây trông coi, mật thất này cũng đổ nát theo. Vì thế Long Dụ thái hậu cho gọi thợ mộc, thợ hồ vào sửa sang lại.




Mặt tiền của mật thất này còn một bức hoạ thật lớn, vẽ ngay lên bức tường quét vôi trắng xoá. Thật ra bức tường này bằng đá, loại đá xanh vô cùng cứng rắn và mịn màng. Phía dưới bức tường này, giấu kín một bộ phận, chỉ cần lấy ngón tay gạt một cái nhẹ là tự nhiên cả phiến đá dùng làm tường đó từ từ mở ra, để lộ một căn phòng phía trong. Tiến vào căn phòng này rồi ta lại lấy tay gạt một cái chốt ở phía trong, tức thì một bức tường khác lại quay tròn đi, để lộ ra một căn phòng khách khác. Bước vào căn phòng khách mới này, tức thì ta lại thấy một căn phòng khác nữa phía trong. Đó chính là phòng ngủ của Tây thái hậu trước đây. Nhưng để bước vào được căn phòng ngủ này ta lại phải tìm cái bộ phận bí mật để gạt chốt, lúc đó tự nhiên căn phòng vụt biến thành thiên tỉnh rồi từ thiên tỉnh lại vụt biến thành thư trai, rồi thư trai vụt biến thành thiên tỉnh, thiên tỉnh lại biến thành phòng khách, cứ như thế biến đi biến lại nhiều lần, có thể nói là biến mãi không cùng, và cứ lần lần đi sâu mãi vào, hết từng nọ đến từng kia, cuối tận chót cùng lúc đó mới tới được phòng ngủ của Tây thái hậu.




Nói đến phòng ngủ của Tây thái hậu này thì phải kể tới một cái "không quản" (tức là cái ống rỗng hai đầu) đặt ngay tại giường ngủ của bà. Cứ mỗi lần đi ngủ, bà đặt cái "không quản" này bên cạnh gói, điều quái lạ là bà có thể nghe được những tiếng động xa hàng trăm bước mà vẫn rõ mồn một. Những tiếng nói tiếng cười, những câu chuyện thì thào mưu tính bên ngoài, bà đều nhờ cái ổng "không quản" mà nghe, như ngồi nghe ở trước mặt vậy.




Lúc sinh thời, Tây thái hậu rất sợ có kẻ ám toán mình, nên bà mới phải dùng đến loại máy móc tinh vi và tối tân đến như thế. Bọn nội giám cũng có kẻ đã nhìn thấy cái ống này.




Cái ống này vốn do đại tướng Triệu Huệ xuất chinh trước đây đã tìm được trong cung vua Miến Điện. Nó được làm từ một cái sừng thú đẽo gọt mà thành. Có điều là không ai biết nó là sừng của giống thú nào và ở đâu.




Long Dụ hoàng thái hậu sửa chữa lại mật thất rồi từ đó mặc tình hành lạc trong cung cấm, dần dần đi đến chỗ tồi tệ, không còn ra thể thống nào nữa. Giữa lúc này, bỗng một câu chuyện xảy ra không ngờ.




Số là Mục Tông còn có một vị phi tử tên gọi Du quý phi. Bà này đã thông minh lại còn có tài. Bất luận cầm kỳ thi hoạ, tất cả đều tinh thông cả. Lúc Mục Tông (tức Đồng Trị) lập hoàng hậu, thì Tây thái hậu có ý muốn sách lập Du phi làm hoàng hậu, bởi vì nàng là con gái của Phương Tú. Ý của Tây thái hậu thì thế, nhưng ý của Hiếu Trinh thái hậu lại khác. Bà không tán thành. Kết quả như ta đã biết là cả hai để mặc cho hoàng đế tự, chọn lấy. Có quyền rồi, ngài bèn chọn con gái của Sùng Y làm hậu, còn con gái của Phượng Tú thì được phong làm phi, tức là Du phi.




Tây thái hậu trong lòng tuy không vừa ý chút nào nhưng việc đã xảy ra như thế, biết làm sao hơn. Song bà thường hay dặn bảo hoàng đế rằng:




- Hoàng hậu tuổi quá trẻ. Du phi có tài. Ngươi nên coi trọng nàng một chút.




Đồng Trị chỉ biết dạ dạ luôn mồm để làm vừa lòng thái hậu mà thôi. Thực ra, ngài chỉ đặc biệt sủng ái có Hiếu Triết hoàng hậu, con gái của Sủng Y. Tây thái hậu vì thấy Du phi không được lập làm hoàng hậu, cho nên bà cũng có ưu đãi hơn. Rồi đến lúc Quang Tự lên nối ngôi, Du phi vẫn ở bên cạnh Tây thái hậu để hầu hạ như cũ. Điểm đặc biệt nhất khiến Tây thái hậu ưu đãi Du phi, là nàng có cái tài ăn nói hoạt bát, xử sự khéo léo, tất cả mọi việc, mọi chuyện đều có thể làm vừa lòng Tây thái hậu. Vì thế Tây thái hậu rất thích nàng, và không muốn cho nàng ở xa mình.




Hồi đó, Long Dụ hoàng hậu tuy là cháu ruột của Tây thái hậu, nhưng lại không được bà yêu quý. Hậu thấy mình không bằng được Du phi, tự nhiên đem lòng ghen ghét. Bởi thế, trong những lúc trò chuyện, hậu thường dùng những lời mỉa mai để miệt thị nàng. Du phi không chịu nổi, bèn đem chuyện này khóc lóc tố cáo trước Tây thái hậu.




Tây thái hậu cả giận, lập tức triệu Long Dụ hoàng hậu tới trách mắng cho một mẻ. Bà bảo:




- Mi đường đường là một hoàng hậu, còn Du phi chỉ là một con nhạn lẻ loi đơn chiếc. Bất luận trường hợp nào, mi phải thương lấy hắn mới được chứ? Mi là cháu gái ta đương nhiên là mi phải quý những người mà chính ta đây quý mến mới phải chứ? Ta thật không ngờ mi lại cậy thế khinh người đến vậy, để cho một con mẹ goá phải than thở, khóc lóc với ta. Đáng lý mi phải giúp đỡ hắn mới đúng chứ?




Chỉ vài câu mắng mỏ đó thôi cũng đã quá đủ để cho Long Dụ hoàng hậu tởn đến già. Mỗi lần gặp Du phi, đến một cái liếc bà cũng không dám nữa chứ đừng nói đến chuyện xoe xiên. Thói đời được cưng thì lại làm bộ lên mặt. Thực thế, từ hôm đó, Du phi đâm ra kiêu căng ngạo mạn. Cung tần phi tử, có còn ai được nàng coi trọng nữa đâu. Song đối với hai phi Trân, Cẩn của Quang Tự hoàng đế, nàng lại hết sức tử tế, đem hết tâm ngầm giúp trước Tây thái hậu.




Năm Canh Tý loạn quyền phỉ, Tây thái hậu bức tử Trân phi, Du phi thường trong những lúc vắng vẻ khóc lóc thương tiếc Trân phi không lúc nào nguôi. Rồi những lúc thấy Long Dụ hoàng hậu bắt nạt Cẩn phi, Du phi cố đem hết sức mình để che chở cho Cẩn. Nàng nói thẳng với hoàng hậu:




- Nàng ta có hai chị em đồng thời tiến cung hầu hạ hoàng thượng. ân sủng chưa thấy đâu, mà một đã chết tức tưởi rồi. Ấy thế mà bọn ta lại còn bắt khoan, bắt nhặt này nọ, thì chẳng hoá ra bọn ta nhẫn tâm quá sao? Mà cũng tiểu nhân quá sao?




Long Dụ hoàng hậu bị Du phi "dạy" cho một hồi như vậy, từ đó cạch luôn, không dám nạt nộ Cẩn phi nữa. Chính nhờ được Du phi ám trợ tích cực như vậy, cho nên Cẩn phi mới dễ thở trong những ngày về sau này. ân nhân đem hết tâm lực vì mình như vậy đấy, nhưng Cẩn phi nào có biết gì. Âu cũng là một điều đẹp trong muôn vàn cái xấu xa bẩn thỉu của cung Thanh.




Nhưng từ khi Quang Tự hoàng đế mất rồi, thì tình thế này khác hẳn. Tây thái hậu mất theo sau vài hôm. Phổ Nghi lên ngôi, nắm quyền đại thống, Long Dụ hoàng hậu được phong là hoàng thái hậu, Cẩn phi cũng được phong lên làm thái phi. Duy chỉ có Du phi, vốn là phi tử của Mục Tông hoàng đế nên không được gia phong.




Chiếu lệ phi tử, khi vào yết kiến thái hậu, miệng phải tự xưng mình là nô tài. Du phi đối với Long Dụ hoàng hậu trước vốn bằng vai. Ấy thế mà ngày nay, bắt Du Phi phải tự xưng mình là nô tài khi gặp Long Dụ hoàng hậu thì thật là một chuyện khó thuận tai quá. Bởi vậy, Du phi quyết không chịu tới gặp nữa. Trong cung cấm, ai cũng cố khuyên Du phi, nhưng nàng vẫn không chịu, chết cũng không chịu.




Ít lâu sau, ngày đi yết lăng đã tới. Đó là lăng Tây thái hậu. Từ nhiếp chính vương trở xuống cho tới bọn vương công đại thần, ngay cả Long Dụ thái hậu nữa, cũng như toàn thể phi tần trong cung cấm, tất thảy đều phải có mặt.




Đoàn người tới lăng làm lễ xong xuôi. Du phi trò chuyện với Tấn phi, Cẩn phi, lúc này đều đang có mặt tại đấy. Du phi thấy bọn thân vương đại thần tề tựu đầy đủ, bèn bước lên, nghiêm nét mặt hỏi Thuần thân vương:




- Ta xin hỏi chư vị: hoàng thượng nối ngôi báu, vậy chỉ nối ngôi Đức Tông hoàng đế hay có cả Mục Tông hoàng đế nữa?




Thuần thân vương bị Du phi hỏi một cách đột ngột, thộn mặt ra một lúc rồi mới trả lời:




- Tự nhiên là nối cả ngôi Mục Tông hoàng đế nữa chứ!




Được Thuần thân vương xác định như vậy rồi, Du phi tự cho mình như đã có một cái thế quá mạnh, bèn dõng dạc tuyên bố:




- Mục Tông Hiếu Triết hoàng hậu nay đã quy tiên, người độc nhất còn lại duy chỉ có ta, hoàng thượng đã gọi là thừa kế cả ngôi báu của Mục Tông hoàng đế, thế thì tại sao Long Dụ hoàng hậu lại gọi được là mẫu hậu còn ta chỉ là một tên nô tài?




Thuần thân vương nghe hỏi xong, ớ ra, mắt trợn ngược lên, không biết trả lời cách nào. Thế là Du phi quỳ ngay gối xuống trước lăng Tây thái hậu bù lu bù loa, khóe rống lên.




Đứng trước tình trạng nan giải này, Thuần thân vương đành phải khuyên về cung rồi sẽ bàn tính lại. Được lời hứa hẹn đó trước quần thần, Du phi mới chịu gạt lệ, lên xe về cung.




Nhưng khi về kinh rồi, bọn Thuần thân vương ngày một ngày hai quên béng ngay lời hứa trên đối với Du phi.




Đến kỳ yết lăng thứ nhì, Thuần thân vương bận việc không đi được phái Tải Chấn thay mặt mình. Trong cung, phi tần tất nhiên kỳ này lại cũng đủ mặt như lần trước. Du phi lần này nhắc lại chuyện, sau đó đòi Tải Chấn lập tức tuyên cáo cho bà. Tải Chấn không dám giải quyết, lấy cớ là không có mặt Thuần thân vương. Sự trả lời né tránh này làm cho Du phi nổi máu điên lên. Phi cho rằng Thuần thân vương lần trước thất tín, tất nhiên là có dụng ý xấu với bà, không thể tin được. Lần này bà đòi sự việc phải rõ ràng, nếu không, bà nhất định sẽ chết ngay tại trước lăng. Vừa nói xong lời, bà liền xông thẳng vào cây cột trụ, định đập đầu tự tử. Tấn phi và Cẩn phi đứng cạnh thấy thế, hoảng hồn bạt vía, vội nhào tới níu lại, rồi cố tìm lời khuyên can an ủi, đồng thời đòi Tải Chấn quay về ngay Bắc Kinh, bàn tính gấp việc này với Thuần thân vương. Chẳng mấy chốc một tờ chiếu chỉ đã hạ xuống. Tải Chấn chạy thẳng lên lăng, tuyên đọc phong cho Du phi làm thái phi, và khi tới Thái hậu khỏi phải xưng nô tài, đồng thời chu cấp chiếc xe loan nữa, đón bà vào cung.




Nghe rõ ràng chiếu chi rồi, Du phi mới chịu thôi. Việc rắc rối đến đây coi như chấm dứt.




Nếu truy nguyên ra thì việc này có một nguồn gốc xa xôi nhưng rất rõ rệt. Số là Long Dụ hoàng hậu ở trong cung cấm làm bậy quá nhiều, có thể nói không việc bậy nào mà bà không làm, cho nên Du phi lấy làm khinh, quyết nhất định không chịu xưng nô tài. Nguyên do chuyến này quá nửa là chỗ đó.




Lúc còn sinh thời Tây thái hậu mỗi khi trong cung có diễn tuồng, hát bồi, Long Dụ hoàng hậu thường hay ngồi bên cạnh Tây thái hậu để xem hát. Hồi đó, những cuộc vui như vậy được tổ chức vào những khi gặp thời gặp tiết, ví dụ như Nguyên đán, Trung thu… Bọn kép hát, đào nương theo lệnh triệu như các năm trước, lục đục kéo vào cung để diễn. Ngoài bọn phi tần, cung nhân trong cung nội ra, ngay cả các phúc tấn cũng như cách cách của các thân vương, hôm đó, cũng ùn ùn kéo vào cung để dự cuộc vui.




Trong số kép hát, Liễu Du Các được thái hậu sủng ái, cho cả vợ và con gái vào cung để hầu hạ thái hậu. Cậy thế được cưng yêu đó, Các cũng tòn tòn vào cung cấm, ném tất cả những kẻ ghen ghét với vợ con mình ra sau ót. Nhưng từ khi Tây thái hậu chết rồi, vợ và con gái của Các đương nhiên không còn lý do gì ở lại cung nội, đành phải cuốn gói trở về nhà. Lúc này, Long Dụ hoàng hậu cũng muốn xem hát lắm, nhưng gặp lúc đại tang, thành thử sợ có điều phạm vào lễ nghi, luật lệ. Mãi về sau, một là tang cớ đã gần như nhạt, hai là thèm đến không chịu nổi, thế là bà cũng theo bọn phi tần đi xem hát. Tên kép hát Liễu Du Các lúc này cũng được vời vào cung nội để diễn cho bà xem. Võ hi của Các kể ra thì hay tuyệt, ít người bì kịp. Hồi Tây thái hậu còn sống, mỗi lần Các hát xong một tuồng, bà thường hay thưởng cho hắn một số tiền, Long Dụ hoàng hậu cũng muốn tỏ ra ta đây oai, cũng bắt chước Tây thái hậu ban ơn cho bọn kép hát mỗi lần hát xong một tuồng, nhất là cho Liễu Du Các, ít ra cũng được một trăm lạng.




Cũng vì cái lợi đó, cho nên Các cố hết sức để đóng tuồng để được ơn thưởng đặc biệt. Trớ trêu thay, trong khi Các trổ tài trổ lực, bỗng một bà phúc tấn "dính" ngay phải mới chết chứ. Thực ra, thì vào cuối đời Thanh chuyện vợ con của bọn vương công đại thần mèo chuột với đám kép hát không thiếu gì coi như biết cũng để đấy mà thôi. Nhưng trường hợp kép Liễu Du Các này thì thật hy hữu, bởi vì Các dám chơi trèo mãi lên cho tới bà phúc tấn đệ nhất của triều đại nhà Thanh, là bà phu nhân của Thuần vương, mới nhiều chuyện chứ. Bà Đại phúc tấn này chính là mẹ đẻ ra Phổ Nghi hoàng đế tại triều hồi đó.




Lúc mới đầu, bà với Liễu Du Các mới có chuyện mắt đi mày lại, nhưng dần về sau, người ta đã thấy hai người "dính cục", lại với nhau như keo sơn. Có điều, tại nơi cung đình, không giống như ở các chỗ khác. Bởi vì nơi đây, tai mắt nhiều, chạy đâu cho thoát bọn cung nhân dòm ngó. Bởi vậy, bà Đại phúc tân nhân một lúc tạm nghỉ trên sân khấu, không ai đề ý, bèn lén ra bên Thái hồ thạch đứng nấp đó để đợi kép. Thực thế, bà chẳng phải tốn bao nhiêu thì giờ, kép Các đã khéo léo theo đến gặp bà rồi. Vừa thấy mặt kép yêu, bà khẽ vả một cái nhẹ vào má trái kép Các, bảo:




- Cậu hát quả hay thiệt! Minh khoái xem cậu hát quá!




Liễu Du Các được khen, phổng mũi lên, nhưng cố làm ra vẻ khiêm nhường, khê cất tiếng thưa:




- Không dám, phúc tấn quá khen đó thôi!




Bà Đại phúc tấn lại nói:




- Nơi đây đông người quá, sợ có kẻ dòm ngó, bất tiện trò chuyện. Nếu cậu rảnh, mời cậu lại phủ chơi. Vương gia cứ sáng sớm lên triều, mãi quá trưa mới về. Trong khoảng thời gian đó, cậu có thể tới phủ, bọn mình trò chuyện thì không còn gì phải lo ngại nữa.




Liễu Du Các vốn đa tình đa dục, lẳng lơ giảo hoạt khi nghe được lời dặn dò của bà Đại phúc tấn, sướng đến điên người, biết đây là một cơ hội ngàn năm một thuở, đời nào chịu bỏ lỡ, vội dạ dạ mấy tiếng liên tiếp, tỏ ý vâng chịu rồi mới vội vã quay trở lại sân khấu.




Đêm đó, xem xong tuồng, bà Đại phúc tấn tạ ơn Long Dụ hoàng hậu rồi ra về, trong lòng khấp khởi mừng thầm.




Qua ngày hôm sau mặt trời đã lên cao, Liễu Du Các quả nhiên mò tới. Hắn nhắm cửa phủ Thuần thân vương mà tiến bước. Đến cổng hắn thấy quân cảnh vệ đứng lố nhố khắp đó đây, không dám vào. Hắn đứng xớ rớ một hồi, ngó mãi, nhưng rút cuộc cũng không dám. Hắn đứng thẫn thờ thêm một lúc nữa, phân vân không biết làm sao. Bỗng tự nhiên, khi phúc đến thì tâm linh hắn sáng nhanh lạ lùng. Hắn đi ngay ra cổng sau. Hắn cho rằng cổng trước có nhiều lính gác, ắt cổng sau phải ít đi, đôi khi không có nữa.




Phủ đệ của Thuần thân vương có một khu vườn hoa ở mặt sau rất lớn. Khi Các chạy vòng ra mặt sau, đến cổng vườn hoa, thì thấy ngay trước cửa cổng, có một tiểu cung nữ đang đứng chờ. Tiểu cung nữ thấy mặt Các thì cười khì khì, cất tiếng hỏi:




- Ông có phải là Liễu đại quan nhân đó không?




Các thấy hỏi, vội gật đầu lia lịa đáp:




- Phải! Phải! Chính phải đấy!




Con tiểu cung nữ bèn nói:




- Phúc tấn bảo tôi đợi ở đây đã từ lâu rồi.




Nói đoạn, con tiểu cung nữ tủm tỉm cười, nguýt Các một cái thật dài, ngoắc Các theo. Liễu Du Các theo tiểu cung nữ vào trong vườn, quanh hết lối tắt đến đường ngang, đi xuyên qua bên này một lát rồi lại xuyên sang bên kia một lúc, đi loanh quanh một lúc lâu, hết mấy khúc đường quanh nữa mới đến một nơi mà Các chỉ thấy có lầu son gác tía trùng trùng điệp điệp.




Cung nữ bảo Các:




- Quan nhân hãy ngồi đây chơi, tôi vào báo cho phúc tấn hay đã nhé.




Nói đoạn, nó ba chân bốn cẳng chạy vào phía trong.




Một lát sau, con cung nữ chạy ra, miệng cười tủm tỉm bảo Các:




- Quan nhân hãy vào chơi. Theo tôi nhé!




Liễu Du Các gật đầu, lòng vừa mừng nhưng cũng vừa run, vội theo con tiểu cung nữ đi vào phía trong toà lâu đài, bước vào trong một căn phòng khách trần thiết hết sức trang nhã.




Mời Các ngồi xong tên tiểu cung nữ rót một chén trà nóng đặt lên bàn đãi khách. Đúng lúc đó, Các bông nghe tiếng động của bước chân đi tới gần. Hắn quay đầu lại, thì ra chính là bà Đại phúc tấn đêm qua. Bà nói tiếng Bắc Kinh rất thạo, miệng cười tủm tỉm, bảo Các:




- Hay lắm! Làm thế nào mà cậu tới đây được? Và tại sao mãi đến bây giờ mới tới vậy?




Liễu Du Các vội cười đáp:




- Trễ là tại tiểu nhân không biết đường, lại mất lối, phúc tấn tha lỗi cho.




Bà Đại phúc tấn bảo Liễu Du Các:




- Chỗ này trò chuyện không tiện. Bọn mình vào trong này kín đáo hơn.




Thế là hai người lại đi vào phía trong thêm một đoạn nữa về phía đông, qua không biết mấy căn nhà căn phòng nữa.




Tại điểm mới này lại còn đặc biệt hơn nữa. Nơi đây, trang trí toàn là đổ cổ quý giá, rồi vàng, rồi ngọc, rồi châu báu, hoa cả mắt. Bà Đại phúc tấn bảo Các ngồi xuống. Nước trà, bánh ngọt được mang lên, chuyện trò hàn huyên bắt đầu.




Được lúc lâu, bà Đại phúc tấn bảo con tiểu cung nữ vào trong nhà lấy một bình rượu cúc ra. Nói rồi, lúc đó thấy vắng người, Liêu Du Các mới hỏi Bà Đại phúc tấn:




- Vương gia lúc này vẫn chưa về?




Bà phúc tấn đáp:




- Ngày thường thì đã về rồi. Nhưng hôm nay có ý chỉ của Thái hậu, vương phải vào cung để hội nghị. Có lẽ phải đến chiều tối mới về tới nhà.




Giữa lúc hai người trò chuyện, con tiểu cung nữ đã chạy lên một tay bưng một mâm cơm rượu thịnh soạn, miệng cười chúm chím, đặt lên bàn.




Sau đó, nó mở cái lồng bàn, thật là đủ sơn hào hải vị so hai đôi đũa bằng bạch ngọc, bày ra trước mặt môi người chiếc chén cũng bằng bạch ngọc rồi nắp bình rượu, rót đầy hai chén, rồi mới khoanh tay đứng hầu bên cạnh.




Kép Liễu Du Các ngửi thấy mùi rượu trong chén thơm phưng phức, một mùi thơm kỳ lạ, tưởng như hôm nay mình được lên ăn yến trên Diêu trì của bà Tây vương mẫu. Mùi thơm phưng phức càng xông lên mũi Các. Hắn không chịu nổi nữa, liền nâng đại ly rượu đưa lên môi nhấm nháp, chẳng cần đợi cho bà Đại phúc tấn mời mọc. Hắn vừa mới nhắp có một hớp, mà cảm thấy như rượu chạy khắp toàn thân, lồng vào ruột, chạy vào mạch máu, tuôn ra cả lỗ mũi, không chỗ nào là không thấy mùi thơm kỳ lạ của rượu. Nhân lúc khoái sướng đến cực độ vì thứ rượu quý, Các bèn cất tiếng hỏi bà Đại phúc tấn.




- Là thứ rượu gì, mà thơm ngon quá vậy? Thực là một thứ rượu hiếm có trên đời.




Bà Đại phúc tấn cười đáp:




- Đấy chính là ngự tửu của Lão Phật gia đấy. Hồi nọ, quốc vương Cao Ly đã chẳng tiến cống đó sao. Năm đó, lễ vạn thọ Cao Tông hoàng đế, quốc vương Cao Ly sai sứ tiến cống bản triều ta. Trong số đồ cống, có mười bình rượu tân kỳ này. Cứ theo như lời tường thuật của sứ thần Cao Ly, thì thứ rượu này chính do tay quốc vương Cao Ly ủ men, gây mốc, và cất đấy Khi cất, nhà vua lấy năm thứ cúc đủ năm mầu, đem tẩm với mật ong, rồi trộn vào. Cất thứ rượu này nghe nói phải có lối cất riêng, vô cùng đặc biệt, chứ không như cất thường. Rượu cất thành được gọi là "Cúc Hoa Băng Lân Tửu". Người được uống thứ rượu này, đã thêm tuổi thọ lại tráng linh, kiện sức nữa. Từ đời vua Cao Tông rượu để lại cho đến nay, chỉ còn có một nửa, nghĩa là mười bình chỉ còn lại có năm. Có một hôm, Tây thái hậu bỗng nhớ tới chiếc bình rượu này. Bà bèn cho Thuần thân vương hai bình. Vương thấy đây là rượu quý nếu không phải là ngày lễ tế, quyết không đem ra uống bừa bãi. Hiện nay còn một bình nữa chưa khui. Rượu mà hôm nay bọn mình đang uống đây chỉ là rượu chiết trong chiếc bình uống dở đó thôi.




Nói đoạn, bà Đại phúc tấn có lẽ cao hứng lắm, giơ cao chén rượu của mình tợp cạn. Từ đó, cả hai đều đắc ý với thứ rượu quý, cất chén liên hồi, có vẻ tâm đầu ý hợp lắm rồi.




Con tiểu cung nữ đứng bên cạnh thấy tửu lượng hai người khá lắm, cứ việc thả dàn rót tiếp. Chuyến này thấy của lạ, lại có người đẹp ngồi trước mắt, Liễu Du Các đâm ra quá chén, mặt đã thấy đỏ, người đã thấy lắc lư, ngồi hình như không vững nữa. Còn bà Đại phúc tấn mặt hôm nay đỏ còn hơn gấc chín. Mắt bà liếc lia liếc lịa, tình trong người dường như đã có cơ muốn phá trái tim mà nhảy ra ngoài. Cặp tình nhân, một đệ nhất phu nhân với một kép hát, thực đã đến lúc mùi mẫn. Hai người cùng cười cùng kề vai sát vế, cùng mắt đi mày lại. Đã đến lúc quá sây rồi, không những say về rượu mà còn say về tình, bà Đại phúc tấn, bèn bảo con tiểu cung nữ dẹp hết mâm rượu, để đưa bà cùng với tên kép Các vào phòng trong vầy duyên cá nước.




Thế là từ đó, kép hát Liễu Du Các ngày ngày ngang nhiên vào trong phủ đệ của Thuần thân vương. Trong phủ, nào là cung nhân, nào là bộc phụ, nào nô, nào tỳ, không một kẻ nào là không biết chuyện này, nhưng biết mà đâu dám nói, và nói để làm gì, để kệ cho những kẻ giàu sang quyền thế ăn vụng chứ, mình cũng có chút lợi là được rồi.




Thực thế, từ khi lén lút vào trong phủ, ngoại tình với Đại phúc tấn, Liễu Du Các cũng chịu khó bỏ tiền ra để đấm móm mấy đứa nô tỳ biết chuyện. Trong phủ Thuần thân vương, không một đứa nô tỳ nào là không được. Ấy thế nhưng sự đời thường có những việc xảy tới mà không ai có thể ngờ trước được. Số là kép Các trong khi quá sướng, quá đắc ý, đã quên mất một tên: đó là tên quan sĩ Lão Cửu. Các đã quên rằng Lão Cửu đang ghen ngược với hắn, bởi vì trước đó chính bà Đại phúc tấn là con mồi của Cửu, khiến Cửu không còn được một chút phần thừa hương rớt nữa mà đến cả tiền cũng chẳng được một cắc thêm. Các chính là kẻ thù cướp cả tiền lẫn tình của Cửu.




Không tính được cái chuyện tình nữa ta phải xoay sang chuyện tiền, Lão Cửu liền tìm cách gỡ gạc kép Các. Cửu ta cứ sáng sớm đã tới chực sẵn tại cửa vườn hoa. Vừa thấy mặt kép Các, Cửu hỏi tiền thẳng cánh, không do dự, e dè gì. Tiền mới xong, chứ nếu không ắt là có chuyện. Cửu doạ thế, thử hỏi Các không "xuỳ" ra sao được? Khổ cái là Cửu ta bắt được thóp Các, lần đầu thì ít, nhưng lần thứ hai, thứ ba, rồi thứ tư, thứ năm…




Cửu ta đâu có chịu cái số tiền mà hắn cho là tiền "gà chết" đó? Hắn đòi càng ngày càng cao, đến độ anh chàng kép Các tự thấy mình không còn cách gì để cung ứng cho hắn nữa. Các cảm thấy mình bị "làm tiền" một cách trắng trợn quá, vừa giận vừa tức, đâm liều, không thèm cho nữa, mặc cho mọi việc đến đâu thì đến.




Lão Cửu thấy kép Các bắt đầu lờ hắn đi, thì nổi xung lên, răng nghiến ken két, chỉ vào mặt Các mà doạ nạt:




- Coi chừng. Thằng khốn kia, ông mách cho vương gia biết thì bỏ mẹ mi có chầu, nghe chưa?




Từ khi quen biết bà Đại phúc tấn, Liễu Du Các tự nhiên ăn xài sang. Nhất cử nhất động, cái gì cũng tỏ vẻ quý phái ra mặt. Nào ăn vận, nào đãi đằng, tất cả đều phải hơn người.




Đến vợ con, Các cũng đều cho xài của lạ, của quý, nào trâm giắt đầu, nào xắc tay, nào vòng, nào xuyến, hết thảy đều là của lạ. Người ta tự hỏi Các chỉ là một tên kép hát, tại sao lại có thể có được những đồ quý giá, phần lớn đều là những đồ tiến cống từ nước ngoài đưa vào? Đừng nói đến một tên kép hát, ngay đến các bậc quan to, quan lớn, nhất phẩm, nhị phẩm cũng chưa chắc đã có được những bảo vật như vậy nữa là! Một tên kép hát, dù có hay được thái hậu ân thưởng đi nữa, thì quyết cũng không thể có những của lạ như thế được.




Người xài bảnh nhất khoái thưởng cho bọn con hát nhất là Tây thái hậu, ấy thế mà cũng chỉ cho bọn này vàng bạc, tơ lụa là cùng, chứ chưa từng nghe nói đến bảo vật.




Những nghi vấn đó không cần phải tìm lâu mới ra câu đáp. Người ta đã nghĩ ngay tới mối tình vụng trộm giữa Các và bà Đại phúc tấn.




Chính giữa lúc lời ong tiếng ve xộn xao này, Các lại bị Lão Cửu chỉ vào mặt hăm doạ đòi quyết ăn thua đủ với hắn. Mà trong vương phủ, Lão Cửu đâu có phải tay xoàng.




Bà phúc tấn được rò câu chuyện, đùng đùng nổi giận, nghiến răng dằn giọng nói:




- Hừ! Ta nghĩ hắn làm việc lâu năm nên mới cho hân có địa vị ngày nay. Không ngờ hắn lại dám vô lễ như thế. Để ta bảo vương gia đuổi cổ nó đi cho rảnh.




Quả nhiên, vài ngày sau, Thuần thân vương cho gọi Lão Cửu lên nhà trên và bảo:




- Ngươi theo ta đã lâu, ta lấy làm bất nhẫn phải đuổi ngươi đi. Song phúc tấn lại không vừa lòng ngươi. Vậy ngươi hãy thu xếp theo ta qua nơi khác ở ít láu.




Lão Cửu không dám trái lệnh, đành dạ dạ luôn miệng rồi lui ra. Sau đó, Cửu thu xếp hành trang đi chỗ khác theo như lời Thuần thân vương dạy. Đi rồi, nhưng Cửu đâu có chịu bỏ cuộc, hơn nữa thua như thế này, Cửu tức lắm.




Vốn không phải kẻ thường gặp việc khó mà nản chí, Cửu tức tốc huy động bạn bè vẫn thường chè chén xưa nay với nhau, kéo rốc tới cổng vương phủ để chờ đợi Các, quyết ăn thua đủ.




Chẳng bao lâu, kép Các như thường lệ nghênh ngang bước những bước thật dài tới vương phủ, như chẳng coi ai ra gì hết. Vừa đến cổng, Các chạm mũi ngay vào mặt Lão Cửu, Cửu chẳng nói chẳng rằng, chìa ngay cánh tay phải ra, hất cao cái bàn tay bự vào mặt Các để đòi tiền. Thái độ của Cửu hôm nay có vẻ hống hách hơn những ngày nọ, có lẽ hắn ỷ có đồng bọn đang nấp sẵn đâu đây chăng.




Nhưng lúc này, Các đã biết Cửu bị tống khứ đi chỗ khác rồi, Các đâu có sợ Cửu nữa. Thế là Các ngoảnh mặt làm thinh, như có ý không thèm đếm xỉa tới. Cửu đòi gắt. Lời qua tiếng lại đôi lần, câu chuyện đâm ra găng. Găng quá đôi bên dùng đến võ lực để giải quyết.




Lúc ra đi, Cửu định tâm chuyến này cho Các một phen vỡ mày vỡ mặt, cho nên chỉ mong Các ta gây ra chuyện để gọi đồng bọn tới cho Các ăn đòn hội chợ. Việc đã đến lúc phải đấm đá, Cửu vội ra ám hiệu, tức thì đồng bọn của Cửu từ trong các góc tường, trong các ngõ kẹt xông ra.




Nhưng Cửu không ngờ Liễu Du Các vốn xuất thân từ một tên xướng võ sinh, đôi tay cũng thuộc loại có hạng, chứ đâu phải vừa. Các thấy bọn Cửu xông ra, nghĩ rằng không dùng tới võ lực không xong, tức thì tay đấm chân đá tới tấp, bao nhiêu bản lãnh vốn có đều mang ra hết rồi, liếc nhìn thấy có một khoảng trống, hắn nhảy vút ra, để dễ bề xoay trở.




Ra được nơi đất trống rồi, Các tả xung hữu đột, gạt bên nọ, đấm bên kia, thi thố hết mọi sở trường về võ thuật của mình ngày trước. Bọn Cửu không ngờ vớ phải tay độc, cứ tưởng đông người xông đại vào, ôm đại lấy, đấm mỗi người một đấm là kẻ khốn kia phải bỏ mạng. Sự đời nhiều khi biết đâu mà tính trước. Cả bọn em út của Cửu bị Các đánh cho một trận tơi tả Ngay cả Cửu cũng bị Các chặt cho một cái vào cánh tay trái gây luôn, chỉ còn cách ôm kẹp vào người mà chạy trốn. Chiến trường sôi động không mấy phút mà đã phải thu dọn cấp kỳ. Cửu vội hè bọn anh em chạy mất dạng.




Liễu Du Các đại thắng keo đầu, lấy làm đắc chí lắm. Hắn lại ngang nhiên cất bước vào vương phủ, chẳng thèm để ý tới Cửu nữa.




Lão cửu đã bại, nhưng đâu có chịu thua. Cửu còn phải báo thù chứ? Suy nghĩ mãi một hồi, Cửu vô mạnh vào đùi đến đét một cái, buột miệng nói:




- Có rồi! Có rồi! Kế ở đấy chứ đâu mà phải suy nghĩ mãi?




Thoạt đầu, Cửu nghĩ rằng hắn sẽ đem câu chuyện này tố cáo với Thuần thân vương, nhưng sau nghĩ lại và lý đoán rằng vương gia sẽ không tin hắn, cho rằng hắn bị bà phúc tấn đuổi sinh đặt điều. Rất có thể vương giả về phủ cật vấn chuyện này, bà phúc tấn lại mồm năm miệng mười, dùng lời ngon lẽ ngọt chối khéo thì câu chuyện chắc phải đi đến hậu quả tai hại cho hắn. Đánh cọp không bẹp đầu thì chỉ tổ mang hoạ vào thân. Nghĩ vậy, hắn tìm kế thứ hai. Hắn đợi lúc Liễu Du Các không đề phòng, lén vào trong phủ tự tình sẽ thi hành thủ đoạn.




Rồi một hôm, Thuần thân vương sau khi bãi chầu, đang thẳng đường về phủ. Vương liếc nhìn thấy Cửu vội thò đầu từ trong xe ra hỏi:




- Lão Cửu? Vội chạy đi đâu vậy?




Lão Cửu nghe hỏi, giả bộ hoảng hết, rồi tỏ ý nghi ngại, cất tiếng run run đáp:




- Nô tài vốn ở trong biệt thự. Không phải vương gia cho gọi sao?




Thuần thân vương lấy làm lạ hỏi tiếp:




- Ta cho gọi ngươi lúc nào?




Lão Cửu đáp:




- Dạ! Vừa có một tên tiểu thái giám tới gọi mà? Hắn nói vương gia hôm nay cho dọn tiệc để khoản đãi Liễu Du Các. Bởi thế, vương gia cho gọi nô tài tới Tụ Phong lâu để hầu rượu.




Thì ra, hôm đó, Lão Cửu được tin đích xác là bà Đại phúc tấn có mời Liễu Du Các tới phủ để uống rượu tìm vui, hắn mới tạo ra câu chuyện đó để thi hành kế hoạch của mình.




Thuần thân vương nghe Cửu nói vậy, cả giận mắng:




- Ta có mời khách đâu? Mà sao lại có chuyện mời một kép hát hạ lưu hạ cấp như vậy được? Ngươi trông gà hoá cuốc rồi phải không?




Lão Cửu tỏ vẻ trang trọng nói:




- Thực vậy, chính nô tài cũng nghi ngờ điều này. Chẳng lẽ vương gia lại đi mời một tên kép hát tới ăn tiệc? Quả là một việc đáng cười. Song tên tiểu thái giám nói rõ ràng như vậy, chẳng lẽ nô tài lại không tuân mệnh của vương gia? Do đó, nô tài vội vã lên đường đi ngay, kẻo phạm tội bất kính với vương gia. Nếu không có chuyện đãi tiệc, thì tại sao có chuyện vương gia cho gọi như vậy nhỉ? Chẳng lẽ có kẻ xấu mồm đặt điều? Nhưng ở đó không có lửa sao lại có khói? Thực là kỳ!




Thuần thân vương nghe Lão Cửu nói xong, như người vừa tỉnh mộng, bỗng đâm nghi, Vương nhớ lại ngày nọ, lúc sinh thời Tây thái hậu, Liễu Du Các thường có những hành vi ám muội khiến đã có lời đồn đại tới tai vương. Cũng có đôi lần, chính mắt vương đã thấy Các vào trong cung cấm, đã không biết an phận mà còn dám làm những điều ngang tai trái mắt.




Bởi thế, hôm nay nghe đến tên Các và có chuyện lạ xảy ra ngay trong gia đình mình, thì đem lòng nghi. Vương tự nhủ:




- Biết đâu chính tên Liễu Du Các đã lẻn vào phủ đệ mình gây ra chuyện bê bối gì chăng? Đúng, biết đâu được?




Suy nghĩ một lát, Thuần thân vương đổi hướng đi. Ngài không cho xe chạy tới nhà Tải Chấn nữa mà quay về phủ đệ mình.




Lão Cửu thấy thế, biết kế mình đã đắc, vội tiến lên mở đường lòng khấp khởi mừng thầm. Cửu dùng mắt ra hiệu cho đồng bọn chạy trước về vương phủ, khoá chặt cổng sau lại. Còn chính mình thì thôi thúc bọn đô tuỳ cho xe chạy thật nhanh.




Chẳng bao lâu xe của Thuần thân vương đã về tới cổng phủ. Chiếu lệ thì cứ mỗi khi vương gia về tới cổng bọn lính thị vệ phải tung hô rầm rộ để lấy oai cho vương gia. Nhưng hôm đó, được Lão Cửu báo trước với những mật hiệu đặc biệt, tất cả đều im lặng như không có chuyện gì xảy ra. Bởi thế, đám hầu gái ở mãi trong nhà trong chẳng biết một tí gì về chuyện quan ông đã về.




Chính giữa lúc này, bà Đại phúc tấn đang cùng kép Các cất chén mua vui, hể hả kê đùi kề vế ở trong trướng, tại hoa đình. Có ai ngờ được lúc này vương gia lại trở về? Bà phúc tấn thì cho rằng phủ đệ lầu ngang gác dọc, nhà cửa rộng thênh thang, vườn ao trông bát ngát, chỉ cần có vài tiếng ồn ào ngoài cổng báo hiệu quan ông đã về là có thể lẩn tránh được ngay.




Chỗ nào chả là chỗ trốn, cất sao khỏi bị bắt quả tang còn sau đó, con hầu thân tín đưa Các luồn qua mấy dãy nhà thấp ra khỏi vườn hoa, chuồn qua cổng sau, thế là êm chuyện.




Đường lối này thực ra đã xảy ra vài ba lần rồi. Bởi thế sau mấy phen kinh nghiệm, bà phúc tấn thấy cách bố trí của mình quá chu đáo, cho nên khỏi cần phải đề phòng, mặc sức cười cợt với kép Các, coi như quan ông tài thánh cũng chẳng thể biết được.




Bà Đại phúc tấn lâu dần càng can đảm hơn, bà bày ngay tiệc, nào rượu quý, nào trân tu mỹ vị để thết đãi tình nhân ở tại hoa đình, trong vườn hoa phía sau, thả sức chè chén say sưa, chẳng thèm để ý tới việc đề phòng.




Hoa đình này vốn là chỗ của Thuần thân vương nghỉ mát mỗi khi hè tới oi bức nóng nực. Trong đình, ngoài mấy cái án thư lớn nhỏ ra, toàn là đồ cổ quý giá. Cũng có một số báu vật rất đắt tiền nữa, ví dụ như một cây bảo kiếm, bao làm bằng da cá xanh, trên có cẩn ngọc bích, mỗi khi rút ra, kiếm loé ánh sáng, rọi thẳng vào đến choá mắt, tóc gáy dựng ngược lên. Cây kiếm này tên gọi Trạm Lư. Nó là một trong số sáu cây kiếm báu của Âu Dương Tử đúc ra, còn truyền lại hậu thế, và nổi danh khắp hoàn vũ. Thời trước, Âu Dương Tử chi đúc được có sáu cây kiếm trong suốt cuộc đời mình. Sáu cây kiếm báu đó là: hai cây kiếm Thư Hùng, cây kiếm Cự Khuyết, cây kiếm Thanh Hồng, cây kiếm Thái A, còn cây nữa chính là cây Trạm Lư này. Nói đến kiếm Trạm Lư thì người can đảm đến đâu cũng phải rùng mình. Chỉ cần thổi nhẹ sợi tóc cũng đứt ngay trên lưỡi kiếm. Kiếm chém người ngọt xớt, không thấy vấy máu. Kiếm chặt vào vàng bạc, sắt đá, như chém vào bùn. Khi đức Thánh tổ (nhà Mãn Thanh) kéo binh đánh Đại, Tiểu Kìm Xuyên, đức Cao tổ của Thuần thân vương đi tuần doanh đến một địa điểm thấy có ánh lửa sáng rực một góc trời. Sợ có quân mai phục, ngài bèn cho quân đi tuần thám xem sao. Quân chạy về báo nơi đó chỉ có một cái giếng khô, còn luồng ánh sáng thì từ đáy giếng phát lên, không biết do một vật gì. Đức Cao tổ tới bên giếng sai bọn lính nhảy xuống giếng, đào cho bằng được để xem cái gì. Thì ra là một cây bảo kiếm.




Cây bảo kiếm đào được này chính là cây kiếm Trạm Lư hiện dùng làm vật truyền gia chi bảo trong phủ Thuần thân vương. Thường vào những ngày mưa gió, cây kiếm này tự nhiên kêu lên vo vo.




Nếu đeo cây kiếm này mà lỡ giữa đường gặp giặc cướp hoặc thích khách thì tự nhiên cây kiếm này bật lên thành tiếng để cảnh cáo cho người đeo hay. Ví thử trong phủ của vương gia có giặc cướp hoặc những chuyện nguy hiểm sắp xảy ra, tức thì cây kiếm nhảy vọt ra khỏi vỏ chừng ba tấc và kêu lên ù ù…




Khi Quang Tự hoàng đế vào cung nối ngôi, cây kiếm này đã một lần kêu lên ù ù như vậy. Do đó, bà Đại phúc tấn đã biết trước lành ít dữ nhiều, không muốn cho Quang Tự vào là vì thế. Chưa hết, trong phủ đệ Thuần thân vương còn có một cái lạ nữa: đó là cây Dao cầm. Tại sao cây Dao cầm được gọi là của lạ? Xin mời nghe qua chút ít lịch sử kỳ bí của nó.




Cây Dao cầm gia bảo của nhà Thuần thân vương có một lai lịch khá ly kỳ. Cây đàn xuất hiện từ đời vua U vương nhà Chu (cách nhà Thanh chừng hai ngàn năm trăm năm), do chúa Khuyển Nhung đem tiến. Đàn có cẩn ngọc xưa, chạy dây vàng, thanh âm trong trẻo dị thường. Trong những đêm trăng trong gió mát, nếu có tay danh thủ đàn lên, tiếng du dương có thể nghe xa đến vài dặm.




Thuần thân vương coi cây kiếm và cây đàn này như là sinh mạng của mình, không khi nào chịu để cho người ngoài xem và thưởng lãm. Trong vương phủ, trước đây có một người thị cơ (nàng hầu) có thể đánh được đàn này. Bà Đại phúc tấn rất thích chiếc đàn. Vì thế, bà bảo người thỉ cơ dạy cho bà học. Nhưng bà mới học có một nửa, thì người thị cơ bỗng lăn ra chết, thế là ngón đàn của bà bị gián đoạn.




Thuần thân vương nhìn vật nhớ người, lại càng thêm quý cây đàn. Hiên nay, ngoài bà Đại phúc tấn đàn được vài bản ra, không còn có ai đàn được nữa.




Hôm đó, giữa bàn tiệc đối ẩm trong hoa đình, Liễu Du Các bỗng chỉ chiếc đờn, hói bà ĐạI phúc tấn:




- Phúc tấn có thể đàn vài bản được không?




Bà đại phúc tấn cười đáp:




- Trước đây, ta được người thị cơ dạy cho được ít bài, nhưng từ khi nàng chết đi rồi thì nghệ thuật đành bỏ. Chiếc đàn từ đó đến nay bỏ không, chẳng ai chơi cả.




Các cười nói:




- Tại hạ biết phúc tấn chơi đàn sành lắm. Hôm nay nhân tửu hứng, xin phúc tấn đàn cho nghe vài bản.




Bà đại phúc tấn nghe lời yêu cầu của Các, cười duyên nói:




- Ta học được đôi chút, có gì gọi là tài nghệ đâu mà đàn cho rườm tai. Thôi xin cho miễn!




Liễu Du Các nhất định không chịu, quyết bức Đại phúc tấn đàn cho bằng được mới nghe. Bà Đại phúc tấn thấy tình nhân nài nỉ mãi chẳng tiện khước từ đành một mặt cười tình, một mặt đứng dậy đi lấy đàn.




Bản đẩu tiên bà gảy là bản Bình sa lạc nhạn. Bản thứ nhất vừa ngừng, thì tiếng khen của Các làm cho bà vô cùng sung sướng. Bà đàn tiếp bản Lưu Bị tháo linh. Tiếng đàn nghe lảnh lót du dương, không thể chê được. Bà đàn sang bản thứ ba Phong tông tùng thanh. Rồi đến bản thứ tư Cảnh dương khai thái. Càng về sau, tiếng đàn của bà càng ảo não lâm ly. Các ngồi đó mà hồn như thân mãi nơi đâu.




Bà Đại phúc tấn đờn hết bản thứ tư, bỗng ngừng ngay lại cười bảo Du Các:




- Thế nào? Không đến nỗi làm trò cười chứ?




Các vốn là một tên giảo hoạt, thấy hỏi, vội tìm những câu thật mùi mẫn để nịnh bà Đại phúc tấn, mong lấy lòng bà, rồi sau đó cũng giở giọng phê bình này nọ, cho ra điều ta đây cũng giỏi đàn, rành nhạc. Hắn lên tiếng:




- Tiếng đàn của phúc tấn như có vẻ thiếu vui.




Bà Đại phúc tấn cười nói:




- Muốn vui, muốn nhộn ư? Có khó gì? Để ta gảy bản Xích bích ao binh cho mà nghe.




Nói đoạn, bà Đại phúc tấn sửa lại dây đàn chút xíu, cho hợp với giọng ca, rồi bắt đầu bản nhạc. Mười ngón tay trắng như ngọc của bà thoăn thoắt chạy trên làn phím đường tơ, làm nảy bật lên những tiếng đàn vừa mau vừa mạnh, sát phạt như kiểu đao thương chạm nhau ngoài trận địa, những tiếng chiêng tiếng trống hãi hùng giữa ba quân. Nếu tinh ý, người nghe như nghe, như nhìn thấy một cuộc chém giết tơi bời trên chiến trường, chứ không còn là những âm thanh du dương, lâm ly, ảo não như mấy bản đờn trước nữa.




Bà Đại phúc tấn đàn xong, liếc nhìn Các, nhoẻn miệng cười, tỏ vẻ kiêu hãnh phần nào về tài nghệ của mình.




Nhưng khổ cái là tên kép Các quả tình dốt nhạc thật, hắn lại đành dùng chiến thuật khen bừa đi để nịnh người đẹp.




Hắn khen được vài câu, bỗng nhớ ra rằng khi hắn lên sân khấu, thường nghe tiếng thanh la, tiếng chiêng, tiếng trống chung quanh, mà người ta thường bảo tình cảnh thật giống lúc Thập diện mai phục và hắn không ngờ rằng ngay ở trong bản đàn mà cũng có cái điệu này. Hắn nghĩ vậy, càng thêm ngạc nhiên cho đàn là một vật lạ, bèn cất tiếng ngây thơ hỏi bà Đại phúc tấn:




- Cái đàn này mà cũng gảy thành Thập diện mai phục được sao?




Bà Đại phúc tấn thấy hỏi, cười lên khanh khách, càng tỏ vẻ đắc chí, bảo Các:




- Có chứ! Chỉ phải cái khó đàn được mà thôi. Ngón này, ta còn chưa luyện được tinh thục lắm.




Sở dĩ bà Đại phúc tấn có lời lẽ khiêm nhường này là vì bà nghe Các hỏi câu trên, xem hắn như người sành điệu, sợ mình trở thành người dám múa rìu qua mắt thợ, làm trò cười cho thiên hạ. Thực ra bà đã lầm. Hắn chỉ có nghề đóng tuồng trên sân khấu, thường diễn tuồng Cửu bại Chương Cam mà biết được cái điệu trống, điệu chiêng của cuộc thập diện mai phục kia thôi. Đó là khi Sở bá vương xuất đài lên ngựa xông trận giữa những âm thanh rộn rã của đôi bên có vẻ tương tự, kép Các ta đoán bừa, may trúng, rủi trật, bất quá cũng chỉ bị bà Đại phúc tấn cười cho là cùng. Không ngờ Các ta đoán mò mà đúng, khiến bà Đại phúc tấn càng thêm giật mình, đành phải xuống nước y như một tay võ xoàng biết kẻ đứng trước mặt mình chính là một võ lâm cao thủ.




Tại Bắc Kinh thời đó, ngón đàn của bà Đại phúc tấn kể đã được liệt vào loại tên tuổi. Đối với nhóm người Mãn có lẽ không có kẻ nào ăn đứt được bà. Ngay cả đến người Hán cũng chẳng có mấy ai hơn. Tên kép Các kể cũng là kẻ nhiều cơ duyên nên mới gặp được trường hợp hy hữu này.




Liễu Du Các ngồi ngây như tượng gỗ. Hắn tuy dốt đặc về nhạc, nhưng tiếng đàn hay dở cũng có thể biết. Hắn vừa phục tài vừa tôn kính bà Đại phúc tấn. Hắn tự nhận mình thua hẳn một bực. Nhưng hắn lại tự kiêu, bởi vì không ngờ tạo hoá lại gia ân cho hắn được ân ái với một mệnh phụ phu nhân, được một tay nhạc trứ danh đàn cho nghe, hắn tự thấy mình như kẻ đang được hưởng hạnh phúc trên trần thế. Trong khi Các thả hồn mình bay bổng theo tiếng đàn du dương êm ái, thì bà Đại phúc tấn cũng đã đàn đến lúc say sưa, đắm đuối. Bà say sưa với men tình đang mơn trớn lòng bà, bà đắm đuối với những âm thanh lả lướt, mê ly quyến rũ…




Giữa lúc hai người đang chập chờn theo tiếng nhạc điệu đàn, bỗng từ bên ngoài có một người khách "tri âm" bước vào…




Người đó chẳng phải ai xa lạ mà là Thuần thân vương.




Theo lệ thường thì Thuần thân vương hằng ngày trở về phủ, trước hết là tới thư phòng xem tất cả những công văn giấy tờ từ các nơi gửi đến, và danh sách của bọn ngoại thần, nội thần đem dâng cho vương lễ vật này nọ, sau đó mới vào phòng trong trò chuyện cùng Đại phúc tấn. Sau khi cơm nước xong, vương mới ra công đường để giải quyết mọi việc trong vương phủ. Thường đến giờ này, thì cũng là lúc Liễu Du Các đã ra đi, cho nên không bao giờ hai bên chạm phải mặt nhau.




Những hành động này lâu ngày đã trở thành thói quen, cho nên anh kép Các hôm đó cứ ung dung ngồi nghe đàn, chẳng có gì đáng lo ngại. Nào ngờ Thuần thân vương đột nhiên trở về trước giờ đã định, nhất là lại còn quá sớm.




Hôm đó, Thuần thân vương được Lão Cửu đưa đường, bỏ cái lệ thường vào qua thư phòng, đi thẳng vào hậu đường rồi ra phía sau xông thẳng tới vườn hoa, nghe tiếng đàn văng vẳng từ phía hoa viên vọng lại, vương biết tiếng đàn đó là của bà Đại phúc tấn. Trong phủ có còn ai gảy được chiếc đàn này nữa?




Thuần thân vương lúc đó đã hoài nghi càng hoài nghi thêm.




Vương bước những bước thật dài, y như chạy, vượt lẹ qua cổng vườn. Lão Cửu theo vương đến đây, nhưng hắn không theo vào. Thuần thân vương thấy Lão Cửu đứng lại bên cạnh, lòng càng xốn xang, bối rối, tin rằng ở bên trong nhất định phải có gì quái lạ, vương thấy mình tối tăm mặt mũi, lửa giận bốc lên ngùn ngụt. Đến lúc này, vương không còn gì phải thắc mắc. Những lời của Lão Cửu trước đây bỗng vụt tới, đánh thức mối nghi ngờ của vương.




Giữa lúc lửa giận bùng lên phừng phừng vương bỗng thấy một tên đầy tớ cầm một cái be rượu, từ trong ĩ hoa bước ra. Hắn thấy Thuần thân vương, vội rụt cổ trở lui. Thuần thân vương thấy dáng bộ che che giấu dấu đó, lòng nghi ngờ tăng lên đến cực độ. Vương vội quát tên đầy tớ đứng lại rồi tự mình bước mạnh trên con đường đá, theo hướng tiếng đàn mà vào.




Vườn hoa này của vương cho nên vương chỉ cần liếc mắt là biết. Vương biết rằng tiếng đàn phát ra từ hướng hoa đình thì Đại phúc tấn của vương nhất định ở tại nơi đấy. Thế là vương thăng bước lẹ tới hoa đình.




Khi bước tới cạnh hoa đình, vương nghe thấy tiếng đàn đang lúc trầm bổng vô cùng du dương, quyến rũ, bỗng quát một tiếng lớn khen hay. Tiếng quát vừa dứt, thì tiếng đàn trên hoa đình cung câm bặt. Đại phúc tấn đã nghe rõ tiếng quát đó là chính của Thuần thân vương thì giật mình đánh thót một cái, hồn vía bay lên tận mây xanh. Ả vội đẩy cái đàn ra, nghiêng đầu nhìn ra ngoài. Sắc mặt bà Đại phúc tấn lúc này vụt biến từ đỏ sang xám rồi tím lại.




Không để chậm một phút, Thuần thân vương đã bước lẹ lên hoa đình. Vương đã thấy rõ ràng Liễu Du Các đang ngồi, còn bà Đại phúc tấn thì đứng cạnh cửa sổ, người ngây ra như chết rồi, đôi mắt trợn ngược lên, hướng thẳng về phía vương.




Lửa giận dâng cao đến chín tầng mây, lòng ghen sôi lên như nồi nước luộc, Thuần thân vương há rộng mồm quát vang lên như một con trâu điên:




- Quân khốn nạn! Quân khốn nạn!




Liễu Du Các đột nhiên thấy Thuần thân vương hiện ra, giật mình đánh thót một cái, trống ngực nện thình thịch. Trong lúc nguy cấp, thường thì trí vụt sinh. Thực thế, Liễu Du Các thấy Thuần thân vương nhô ra ở cửa đình, vụt đứng dậy, xông thẳng ra trước mặt vương như một chiếc tên bắn, rồi thừa lúc vương không đề phòng, hắn phóng một đá đánh huỵch vào ngực khiến vương lộn nhào đi mấy vòng, lăn luôn xuống cầu thang và cuối cùng nằm sóng sượt trên mặt đất. Không để mất thì giờ quý báu, kép Các ta nhảy vút một mạch ra khỏi hoa viên. Thật là một phen hú vía.




Lão Cửu, tên oan gia của bà Đại phúc tấn đến nửa đường, thấy diệu kế đã thành công, liền rút lui ra ngoài. Nhưng tại sao trong một vương phủ rộng lớn, há lại không có lấy một kẻ hầu người hạ biết chuyện để phò cứu Thuần thân vương và bắt lấy tên kép hỗn xược dám co căng đá vương?




Số là trong hoa viên, bọn con hầu đày tớ nếu không có lệnh không được lảng vảng tại đây. Chỉ riêng có quyến thuộc của vương là được quyền vào hoa viên mà thôi. Ấy cũng chính vì thế nên Lão Cửu khi vào tới hoa viên, liền dừng lại. Thành thử nơi hoa viên rộng rãi, Thuần thân vương tuy bị nạn mà vẫn không có ai tới để phò cứu. Hơn nữa, khi kép Các co giò đá một đá như trời giáng vào vương, khiến vương lộn nhào xuống đất, đầu va vào chân tường, bất tỉnh nhân sự, nằm lịm trên mặt đất một lúc khá lâu mới hồi tinh và gượng dậy được.




Đến khi vương tỉnh đậy được thì tên gian phu nọ đã cao chạy xa bay từ lâu rồi. Nếu không có cái đá cứu mạng ấy, thì chỉ cần một tiếng hô "bắt" đủ để Các ta vào ngồi nhà đá từ lâu.




Tên gác cổng hoa viên thấy Các hối hả chạy ra, đã định xông lên chặn lại để bắt, nhưng hắn nghĩ Các vốn là người tình của Đại phúc tấn, chẳng dại gì mà can thiệp, mặc dầu hắn đả có lời căn dặn trước của lão Cửu, hơn nữa, hắn còn nhớ rằng lão Cửu chỉ nói giữ cửa, chứ không dặn bắt người.




Hắn cũng còn đắn đo khi so sánh hai thế lực: thế lực của Lão Cửu và thế lực của bà Đại phúc tấn. Tất nhiên thế lực của bà Đại phúc tấn lớn hơn thế lực của lão Cửu nhiều. Vậy thì dại gì mà can thiệp vào chuyện của người có thế lực lớn để hại đến mình, khi mình chỉ là một anh chàng gác cổng? Thế là tự nhiên tư tưởng chống đối bà Đại phúc tấn để đi theo lão Cửu tiêu tan ngay như mây khói. Hắn để mặc cho Các phóng mạnh ra khỏi cổng, mất hút tận khúc quẹo đường lộ bên ngoài.




Thuần thân vương lúc này lửa giận cao ngất trời xanh, chỉ tiếc là không mang cây kiếm đi để cho bà vợ một nhát cho xong đời con dâm phụ làm xấu xa ô nhục cả tông môn.




Vương gầm lên như hổ rống, hai mắt quắc sáng như mắt con tinh, chỉ chực nuốt con mồi đang bò lăn dưới chân. Nhưng gầm thét mới có được vài phút, vương bỗng nhớ đến thân phận mình, đến địa vị mình, địa vị một nhiếp chính vương, vội câm bặt ngay, chỉ còn biết nghiến răng lên ken két, tỏ vẻ như hằn học đến khó có thể sống nổi. Vương nghĩ rằng nếu mình làm om sòm lên, câu chuyện đổ bể ra thì chỉ xấu mặt mình, mất danh dự của mình mà thôi. Thực thế, nếu triều đình văn võ bá quan mà biết chuyện động trời và ô nhục này thì ai còn trọng vương nữa? Máu hận của vương to thật nhưng hoàn cảnh đã bắt vương phải xuống nước trước một chuyện đã rồi. Hơn nữa, vương còn nghĩ dù sao bà phúc tấn của vương cũng đã có bao năm tình nghĩa vợ chồng với vương khiến vương càng chẳng nỡ. Đương kim hoàng đế Phổ Nghi lại chính là con đẻ của bà, vốn được thái hậu rất cưng chiều, và còn là mối hy vọng của bà nữa. Nếu ví thử đổ bể, điều tiếng bay đi rất có thể còn nguy hại cho cả sự nghiệp của con mình là khác.




Nghĩ đến đây, Thuần thân vương đổi hẳn thái độ. Vương không còn dữ tợn như khì nãy nữa. Vương thở dài một tiếng, khẽ cất tiếng dặn dò bà Đại phúc tấn:




- Lần sau, cấm bà không được lui tới với tên kép hỗn xược ấy nữa, nghe chưa? Nếu không, coi chừng cái đầu của bà.




Bà Đại phúc tấn nuốt lệ, run run nhận tội và cam đoan chẳng dám, mặt trắng bạch ra như sắc đất, đúng là sắc mặt của mấy con dâm phụ ngoại tình bị chồng bắt được quả tang.




Lại nói tới chuyện cách mạng lâu nay sôi động khắp nước, Đảng cách mạng tuy đã khởi nghĩa nhiều lần nhưng đều bị thất bại, hy sinh quá nhiều đồng chí, thật là một điều đáng hận và cũng là đáng ngại. Nhưng đã gọi là hy sinh cho tổ quốc hoạt động cho cách mạng, thì mấy ai chịu đành bó tay.




Lần này, họ đi vào thuyết phục đám quân nhân, bởi vì quân nhân mới có sức mạnh thực tế. Họ vận động khởi nghĩa.




Rồi cuộc khởi nghĩa Vũ Xương nổ lớn. Tiếng đồn đại xa dần, máu ái quốc của người Trung Hoa lúc này sôi lên sùng sục.




Thế là khắp các nơi hưởng ứng lời kêu gọi của cách mạng, của các nhà lãnh tụ từng nêu danh.




Triều đình Mãn Thanh được tin động trời này, chân tay ai nấy run lên cầm cập, chạy ngả trước không đường, chạy lối sau không ngõ. Hơn nữa lúc bình thời, họ lại chẳng có đề phòng gì, làm sao lúc này đương đầu với quần chúng cách mạng đông đảo được. Bởi thế, Phổ Nghi, ông vua chót của nhà Thanh chỉ còn cách nhường ngôi…




Các đảng cách mạng đã đồng loạt nổi dậy tại khắp nơi.




Tiếng súng nổ, tiếng reo hò, tiếng đả đảo, tiếng chân chạy, tiếng ngựa hý vang rầm khắp thành phố Vũ Xương. Quân cách mạng trước nổ súng xa xa, nhưng chỉ trong vài tiếng đồng hồ đã xáp lại gần dinh quan hiệp thống. Nào nha, nào dinh, nào thự, nào công đường, tất cả đều bị vây hăm tứ phía. Có những cái ống loa bắc từ ngoài thét to vào bên trong dinh, bức bách quan hiệp thống họ Lê phải thừa nhận cách mạng, nếu không sẽ bị trừ diệt. Lê hiệp thống nghe tiếng loa, càng hoảng, ông nhất định không chịu cho mở cửa thành.




Bà Nguỵ thị là vợ bé của quan hiệp thống thấy nguy, vội tương kế tựu kế, cho rằng nếu không thừa nhận giùm quan ông thì quyết là mất mạng. Bởi thế, bà vội vàng chạy ra trước công đường đứng ngang nhiên trước mặt mọi người, la lớn:




- Quan hiệp thống, ngài chấp nhận rồi đấy! Ngài rất vui lòng hưởng ứng cách mạng, các người hãy chia nhau đi các nơi tiến hành công việc đi thôi.




Thật là một câu nói đắt giá vào lúc đó. Quân cách mạng cho rằng đã chinh phục được một tướng lãnh của đối phương về mình. Trong khi bà Nguy thị thì mừng vì đã tìm được sự sống cho chồng và cả cho chính mình.




Lời của bà Nguy vừa ban ra, quân cách mạng tin là thực đồng thanh hô vang mấy tiếng "Muôn năm! Muôn năm!" rồi ùn ùn kéo nhau sang hướng nha môn của quan tuần phủ Ngọc Châu.




Tin cách mạng thành công ở Ngọc Châu chẳng mấy chốc loan truyền đi khắp nước. Chính phủ nhà Thanh được tin cấp báo từ bốn phương gửi về như bươm bướm, từ quan đại thần đến chú lính lệ các nhà quan, đều sờ lên gáy để xem cái đầu lâu của mình liệu còn tồn tại bao lâu nữa. Bọn thân vương thì chân tay rụng rời, mặt mày xanh xám.




Bọn đại thần nhà Thanh lúc đó là Thế Tích, Cù Hồng Cơ, Thịnh Hanh Tôn, tất cả đều chỉ là một bọn giá áo túi cơm, thật là vô dụng cho đại cục. Trong lúc nguy khốn đó, một cuộc hội họp khẩn cấp được triệu tập, rồi loanh quanh mãi cả buổi, bọn đại thần sợ chết này bỗng nhớ đến Viên Thế Khải.




Viên Thế Khải lúc đó hiện đang bị mất chức, nhưng không còn cách nào hơn, nếu không đưa Viên ra để cáng đáng công việc khốn nguy hiện tại. Thế là cả bọn nhao nhao lên đề cử họ Viên, phục chức lại cho Viên, sai Viên đi chỉ huy quân đội để chống lại quân cách mạng.




Viên Thế Khải vốn là một tay túc trí đa mưu, trong lòng ôm ấp trí lớn. Viên người Hạng thành, xuất thân chỉ là một anh giám sinh. Viên nhờ được lão sư Lý Hồng Chương dẫn dắt, đã từng được chức Triều Tiên uỷ viên.




Lúc Viên còn nhỏ tuổi, ông già của Viên là Viên Giáp Tam vốn đã từng làm mạc phủ của họ Lý. Có lẩn, Viên được vào yết kiến họ Lý. Quan sát tướng mạo cũng như hành động của Viên, dù rằng lúc đó còn nhỏ tuổi, Lý Hồng Chương đã phải thán phục, và thường nói với bọn mục hữu ở trong phủ:




- Thằng bé này về sau công danh phú quý còn hơn lão phu xa! Các ngươi chớ có khinh thị hắn.




Nhờ được sự trọng thị đó, Viên ở dưới trướng của họ Lý luôn một lèo được đến mười hai năm. Có một hôm, xảy ra chuyện ghen tuông rồi đánh nhau giữa một tên đầy tớ và một tên nhà bếp. Tên nhà bếp quá ghen, hung tiết, xách dao rượt tên đầy tớ. Tên đày tớ chạy cùng cả nhà trong, nhà ngoài, cuối cùng không còn chỗ nào trốn nấp được nữa, đành phải chạy đại vào thư phòng của Lý Hồng Chương.




Tên nhà bếp đuổi theo quyết không bỏ, mặc dầu thấy ông chủ đang ngồi đường bệ trong đó xem sách, có Viên đứng hầu bên cạnh. Tên đầu bếp xách dao rượt vào thư phòng, đuổi chém tên đầy tớ: Lý Hồng Chương vẫn thản nhiên xem sách, giả tảng như không biết, hoặc có biết mà mặc kệ, không thèm đếm xỉa gì đến. Tên đầy tớ vào đến đây bí lối, bị tên đầu bếp tóm cố được điệu ra bên ngoài, dùng dao chém đứt lìa cổ, chết ngay tại trận. Câu chuyện xảy ra xong, về sau có người hỏi Viên Thế Khải:




- Lý lão sư không để ý tới chuyện của kẻ khác, đó là cái tính cố hữu của ông chẳng nói làm chi. Ngươi ở ngay bên cạnh, tại sao lúc bấy giờ, thấy người ta sắp chết mà không cứu?




Khải nói:




- Tất cả bọn ngươi đều thấy tên đầu bếp cầm dao lăm lăm chực giết tên đầy tớ chứ, phải không? Tên đầy tớ cũng có đôi tay như tên đầu bếp, tại sao hắn lại không biết cầm dao mà chống lại? Hắn thấy rõ ràng có kẻ xách dao chém mình, ấy thế mà không dám chống lại, trong đời này, có kẻ nào hèn hơn hắn nữa không? Tên đầy tớ quả thực chẳng có nghị lực, có đởm lượng gì cả. Hèn mạt đến như hắn, thử hỏi để cho nó sống trên thế gian này có được ích gì? Để cho hắn chết đi, chính là một điều rất nên, rất phải, Lý lão sư không cứu tên đầy tớ chính là do ý kiến đó. Ý kiến của Lý lão sư thế, thì hà tất tôi phải cứu giúp tên đầy tớ vô dụng kia?




Câu đối đáp này của Viên Thế Khải lọt đến tai Lý Hồng Chương. Lý vuốt râu cười khà khà bảo với tả hữu:




- Thằng bé quả đã hiểu được lòng ta.




Từ đó, Lý Hồng Chương càng thêm trọng thị Viên Thế Khải. Nhờ đó, chỉ vài năm sau, Viên nhảy ngay lên chức uỷ viên đồn trú tại Triều Tiên.




Nguyên Lý Hồng Chương có tính rất lạ là chỉ thích kẻ can trường, dũng lược, trái lại rất ghét và rất khinh bọn người nhát gan, yếu hèn. Bởi thế, trong nhà, mỗi khi có bọn đầy tớ bộ hạ gây chuyện đánh nhau, đâm chém nhau, vô phúc cho kẻ nào thua trận, chạy lên mách thưa, tố cáo, đã không những không được bênh mà trái lại còn bị quở trách, chửi bới nữa là khác. Mặt khác kẻ nào thắng trận không những không bị trừng phạt mà còn được khen thưởng, khuyến khích nữa.




Ấy chính vì cái tính quái lạ đó của chủ, cho nên bọn bộ hạ trong nhà Lý Hồng Chương mỗi khi phải chiến đấu, chúng thường rất quyết liệt, chỉ có tiến chứ không bao giờ lùi.




Đó là tính của Lý, còn con người của Viên cung chẳng để cho ta có thể khinh thị được.




Viên là một nhân vật vô cùng trọng yếu trong lịch sử đời Thanh mạt. Từ khi bị bãi chức ở Triều Tiên, Viên trở về Trung Quốc, được Vinh Lộc biết đến tên tuổi. Lộc sai Viên làm đốc biện tại Tiểu trạm luyện binh. Nắm được cơ hội nghìn năm một thuở Viên bèn sửa soạn ngay thế lực cho mình. Viên để ý thu dụng những tướng lãnh có khả năng ở dưới trướng để chờ lúc dùng tới. Hồi đó, người ta thường nghe nói tới danh từ "Lục quân tứ kiệt", đó là bốn tay tướng lãnh nổi danh một thời của Viên: Phùng Quốc Chương, Đoàn Kỳ Thuỷ, Vương Sỹ Trân và Trương Huệ Chi.




Năm Mậu Tuất chính biến, bọn quyền phỉ làm náo loạn cả Trung Quốc, Viên Thế Khải đã làm tuần phủ tỉnh Sơn Đông.




Rồi đến năm Tân Sửu, Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế hồi loan, Viên được tiến cử làm Tổng đốc tỉnh Trực Lệ. Lại đến năm mạt niên đời Quang Tự, cả hai cùng mất (tức Tây thái hậu và Quang Tự hoàng đế) Phổ Nghi vào cung kế vị, Thuần thân vương Tải Phong nhiếp chính, thì Viên bị mất chức về vườn.




Tuy bị về vườn, nhưng Viên Thế Khải vẫn thường nói với những người thân cận của Viên:




- Triều đình nhà Thanh không biết người biết của chút nào! Hiện nay, ta bị mất chức, nhưng ta biết chẳng bao lâu nữa họ lại phải dùng đến ta…




Kịp đến khi quân cách mạng khởi nghĩa tại Vũ Xương, đúng vào năm Tân Hợi đời Tuyên Thống, Viên lúc đó đang ở nhà bỗng được tin Thanh triều cho công văn gấp đến triệu ra cầm binh chống cách mạng như trên đã kể.




Được tin này, Viên nhảy lên vì sung sướng và quát vang cả nhà, đến nỗi vợ con, đầy tớ giật mình không hiểu chuyện gì.




- Thời kỳ xuất sơn của ta đã đến. A ha ha! A ha ha! Thời của ta đã đến. A ha ha! A hà ha!




Nghe Viên la lối om sòm, gia đình tuy đã biết lý do, nhưng đều cho là chuyện không tưởng. Không ngờ, ba hôm sau, câu chuyện lạc quan của Viên quả chẳng tếu tí nào. Triều đình nhà Thanh đã hạ chi triệu Viên vào cung, trao cho Viên quyền hành chỉ huy toàn quân đội. Thanh triều khi gặp Viên, liền huấn miễn Viên đôi ba câu, gia phong quan tước cho Viên, rồi giục giã Viên lên đường đi đối phó quân cách mạng.




Viên thấy thời cơ đã tới cuộc đời của mình đã lên hương, liền làm bộ bất cần, đến nỗi Thanh triều phải hạ một đặc mệnh, coi Viên y như Tăng Quốc Phiên thời Hồng Tú Toàn thuở nọ.




Đến lúc được thoả mãn lòng tự ái cũng như được đãi ngộ tương xứng Viên Thế Khải mới xuất đầu lộ diện với một vinh hiệu thật hiếm có trong thời đó. Viên thấy đại quyền đã nắm trong tay mình, bèn một mặt cho bố trí ngầm thế lực, một mặt sai Phùng Quốc Chương xuất quân, chống trả quân cách mạng.




Thủ hạ của Phùng Quốc Chương lúc đó có khá nhiều những tay tướng giỏi nổi danh là thiện chiến, bởi thế khi giáp đấu với quân cách mạng chưa từng luyện chiến, Phùng đã thắng được vài ba trận đầu.




Tuy thanh thế của Phùng bốc lên mây xanh, nhưng thế lực cách mạng lúc này đã thành tựu đến tám, chín phần, khó có thể đảo ngược được. Nhà Thanh nếu chỉ hy vọng vào đội quân của Phùng thì không thể nào nắm được phần thắng. Hơn nữa ngay lúc đôi bên đang chiến đấu kịch liệt nảy, Tôn Văn, nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc có uy danh lớn đương thời đã được đám dân quân cách mạng suy tôn lên làm Đại Tổng thống lâm thời tại Kim Lăng (tức Nam Kinh). Ý dân trong thiên hạ đều hướng về cách mạng, về chế độ cộng hoà. Triều đình nhà Thanh chỉ nhờ vào có mỗi một quân lực của họ Viên cũng như họ Phùng, thực chẳng thấm tháp vào đâu.




Viên Thế Khải tự biết rằng mình cưỡng lại với lòng trời quả là một việc khó khăn nguy hiểm. Do đó, sau khi chiến thắng được vài phen bèn án binh bất động, chờ đợi xem tình thế xoay chiều ra sao.




Mặt khác, trong triều đình nhà Thanh lúc này tình trạng chẳng khác chi nồi nước sôi. Nhiếp chính vương Tải Phong ngay trong đêm vội vã chạy vào cung gặp Long Dụ hoàng thái hậu để triệu tập một cuộc hội nghị quan trọng. Hoàng hậu liền cho đi triệu Cẩn phi cùng tất cả những thân vương đại thần trong Mãn tộc như Tải Chấn, Tải Tuân, Thế Tục, Lục Nhuận Tường, Thái Phó để mở ngay một cuộc đại hội gọi là "Ngự tiền đại hội nghị". Trong cuộc họp, cả Mãn tộc được thông báo tình hình tường tận như sau:




Viên Thế Khải án binh bất động, không chịu tiến quân.




Các tỉnh kéo cờ trắng đầu hàng. Bọn Đoạn Ngọ Kiều đều tuẫn tiết cả Trương Lưu thua trận, đang đêm trốn chạy về Từ Châu.




Trương Huân bỏ Nam Kinh rút lui chạy ra bên ngoài. Cái thế lớn của Thanh triều như thế là đã hết nếu có muốn miễn cưỡng hành động, cũng khó có thể khôi phục được.




Với tình hình này, Mãn tộc quả thực đang lâm vào cảnh nguy khốn đến cùng độ.




Được báo cáo tình hình vô cùng khôn nguy như vậy, tất cả Mãn tộc rúm người, mặt xanh như chàm đổ, đồng thanh quyết liệt xin nghị hoà với quân cách mạng. Tất nhiên chuyện nghị hoà phải dẫn tới trường hợp triều đình nhà Thanh bắt buộc phải hạ chiếu nhường ngôi, song song với những điều kiện được đặt ra. Những điều kiện như thế nào?




Trước hết triều đình nhà Thanh yêu cầu phải được ưu đãi, quân dân cách mạng không được chém giết người Mãn. Mặt khác, Chính phủ Dân quốc được chính thức thành lập, nhưng chính phủ này phải hằng năm trợ cấp cho con cháu nhà Thanh ba trăm vạn đồng bạc.




Đến đây, vương triều nhà Thanh coi như đã chấm dứt.




Nếu kiểm lại cả một giai đoạn lịch sử Trung Quốc gần ba trăm năm dưới triều đình nhà Thanh ta thấy từ khi Ngô Tam Quế, chỉ vì một cô vợ bé đã nhẫn tâm đem người Mãn vào thống trị Trung Quốc, cõng rắn cắn gà nhà. Đa Nhĩ Cổn định đô cho nhả Thanh ở Yên Kinh, lấy nhiếp chính vương sự nghiệp mà mở nước, làm chủ nước Trung Hoa, đến đầu thế kỷ thứ hai mươi này, cũng lấy sự nghiệp của một vị nhiếp chính vương mà chấm dứt, tổng cộng tất cả là mười đời vua, trong khoảng hai trăm sáu mươi tám năm. Nhà Mãn Thanh trước khi vào Trung Quốc, lúc còn ở Mãn Châu đã có ba đời vua, bởi thế cộng lại là mười ba đời, do đó bộ tiểu thuyết lịch sử này mới có tên Thanh cung mười ba triều. Thực ra, cái tên này không chính xác lắm về mặt nội dung bởi bộ sách đầy rẫy những chuyện ly kỳ, rùng rợn, những chuyện xấu xa, tàn ác, lại cũng chẳng ít những chuyện hoang đường, những chuyện mưu mô của những kẻ sống trong cung cấm. Bởi thế, nếu gọi bộ tiểu thuyết này là "Thanh cung bí sử" có thể sẽ phù hợp hơn chăng?




-- Hết --

Bạn đang đọc truyện trên: LoveTruyen.Me