LoveTruyen.Me

Trieu Nguyen Doi Thay

Buổi thượng triều – Ngày 16 tháng 2 năm 1820

Sau buổi thượng triều cải cách chính quyền trung ương, ta triệu tập bá quan một lần nữa để bàn về việc quan trọng khác: lập Đế hệ phi và Phiên hệ phi.

Khi ta vừa dứt lời, cả triều đình xôn xao. Các quan đại thần ngước nhìn nhau, nhiều người tỏ ra bối rối.

Lê Văn Duyệt là người đầu tiên lên tiếng: "Tâu bệ hạ, trước nay tông phả nhà Nguyễn vẫn theo thứ tự cha truyền con nối, chưa từng có quy chế phân biệt dòng chính hay dòng phiên bằng hệ thống chữ lót".

Ta gật đầu, chậm rãi nói: "Trẫm biết, nhưng việc đặt Đế hệ phi và Phiên hệ phi không chỉ để phân biệt chính tông với ngoại chi, mà còn để thống nhất hệ thống đặt tên cho con cháu hoàng thất, tránh nhầm lẫn và tranh chấp sau này".

Trương Đăng Quế tiến lên, cung kính hỏi: "Vậy bệ hạ định quy định như thế nào?".

Ta đưa mắt nhìn bá quan, rồi tuyên bố rõ ràng: "Họ Nguyễn Phúc thuộc dòng chính của đế hệ, sẽ dùng "Miên – Hồng – Ưng – Bửu – Vĩnh – Bảo – Quý – Định" theo từng đời. Họ Nguyễn Phúc thuộc dòng phiên hệ, sẽ dùng "Tường – Tráng – Thông – Thế – Quốc – Gia – Xương – Thịnh"".

Cả đại điện im lặng. Một số quan vẫn chưa hiểu ý nghĩa sâu xa của việc này.

Nguyễn Văn Nhân, một vị quan lớn tuổi thuộc phe bảo thủ, trầm giọng hỏi: "Bệ hạ, vậy Đế hệ phi có quyền gì đặc biệt so với Phiên hệ phi?".

Ta điềm tĩnh đáp: "Đế hệ phi là dòng chính, con cháu hoàng đế, có quyền nối ngôi và giữ các trọng trách trong triều. Phiên hệ phi là dòng phiên vương, có thể phong tước công hầu, nhưng không được phép tranh giành ngai vàng".

Lần này, các tôn thất có mặt trong triều đều biến sắc.

Hoàng thân Lê Chất đứng ra phản đối: "Bệ hạ, từ xưa đến nay, con cháu hoàng tộc đều có thể đảm đương đại sự. Nếu quy định như vậy, phải chăng những người thuộc dòng phiên hệ sẽ bị gạt bỏ?".

Ta nhìn ông ta, giọng nghiêm nghị: "Không ai bị gạt bỏ cả. Phiên hệ vẫn có thể làm quan, nắm quyền cai trị ở các địa phương. Nhưng ngai vàng phải thuộc về dòng chính thống, không thể để họ ngoại, hoàng thân ngoại chi hay kẻ cơ hội nhúng tay vào ngai vị".

Phan Huy Thực, một quan văn lớn tuổi, chắp tay thưa: "Bệ hạ làm như vậy là để bảo vệ hoàng vị và tránh loạn ngôi sau này?".

Ta gật đầu: "Chính xác. Chúng ta không thể để lịch sử lặp lại như thời Lê – Trịnh hay Tây Sơn".

Lần này, các đại thần dần hiểu ra. Những người trung lập gật gù đồng tình, còn phe bảo thủ thì không còn lý lẽ để phản bác.

Duy chỉ có một số tôn thất là vẫn chưa hài lòng. Nhưng ta không để họ có cơ hội phản đối thêm.

"Chiếu chỉ này sẽ được ban hành trong vòng một tháng. Các ngươi có thể về suy nghĩ thêm, nhưng trẫm không thay đổi quyết định".

Cuộc họp kết thúc trong bầu không khí căng thẳng.

Ngay sau khi triều đình giải tán, tin tức về Đế hệ phi và Phiên hệ phi đã lan khắp Hoàng cung. Nguyễn Phúc Đán (sau này là Thiệu Trị) – Con trai trưởng của ta, còn nhỏ nên chưa hiểu hết ý nghĩa. Một số hoàng tử khác lo lắng vì nếu không thuộc dòng Đế hệ phi, họ sẽ không có cơ hội tranh đoạt ngôi vị.

Các phi tần có con thuộc Đế hệ phi thì vui mừng. Những phi tần có con thuộc Phiên hệ phi thì bất mãn, sợ con mình mất địa vị. Họ không dám nói ra, nhưng trong hậu cung đã có lời bàn tán rằng Minh Mạng đang muốn kiểm soát hoàng tộc một cách tuyệt đối.

Chiều hôm đó, ta lại được triệu vào Di Ninh Cung. Thái hậu ngồi trên ghế cao, ánh mắt trầm tư hơn hôm trước.

"Con vừa mới cải cách triều đình, giờ lại đụng đến cả tông phả. Con không sợ bị tôn thất phản đối sao?".

Ta quỳ xuống, giọng cứng rắn: "Mẫu hậu, nếu không làm ngay bây giờ, sau này hậu họa sẽ khôn lường".

Bà thở dài: "Nhưng con có chắc họ sẽ chấp nhận không?".

Ta cười nhẹ: "Ban đầu sẽ có phản đối, nhưng về lâu dài, đây sẽ là quy củ bất di bất dịch. Một khi đã có hệ thống này, không ai có thể tranh ngôi vị bằng cách lôi kéo hoàng thân hay dùng lý do "con cháu hoàng tộc đều có quyền kế vị"".

Bà im lặng một lúc, rồi gật đầu: "Được rồi. Nếu con đã quyết, ta sẽ không can thiệp. Nhưng hãy cẩn thận".

Ta cúi đầu: "Con hiểu".

Sau hôm nay, trật tự của hoàng tộc sẽ được định hình lại mãi mãi. Nhưng ta biết, đây chỉ mới là khởi đầu của những cuộc đối đầu phía trước...

Giải nghĩa các từ trong Đế hệ thi:

Miên: Trường cửu, phước duyên trên hết

Hường (Hồng): Oai hùng, đúc kết thế gia

Ưng: Nên danh, xây dựng sơn hà

Bửu (Bảo): Bối báu, lợi tha quần chúng

Vĩnh: Bền chí, hùng anh ca tụng

Bảo: Ôm lòng, khí dũng bình sanh

Quý: Cao sang, vinh hạnh công thành

Định: Tiền quyết, thi hành oanh liệt

Long: Vương tướng, rồng tiên nối nghiệp

Trường: Vĩnh cửu, nối tiếp giống nòi

Hiền: Tài đức, phúc ấm sáng soi

Năng: Gương nơi khuôn phép bờ cõi

Kham: Đảm đương, mọi cơ cấu giỏi

Kế: Hoạch sách, mây khói cân phân

Thuật: Biên chép, lời đúng ý dân

Thế: Mãi thọ, cận thân gia tộc

Thoại (Thụy): Ngọc quý, tha hồ phước lộc

Quốc: Dân phục, nằm gốc giang san

Gia: Muôn nhà, Nguyễn vẫn huy hoàng

Xương: Phồn thịnh, bình an thiên hạ

Các quan mở Ngự chế mạng danh thi ra thì được ghi chú cụ thể:

Miên + (宀; miên), Hường + (亻; nhân), Ưng + (礻; thị), Bửu + (山; sơn), Vĩnh + (玉; ngọc)

Bảo + (阜; phụ), Quý + (亻; nhân), Định + (言; ngôn), Long + (扌; thủ), Trường + (禾; hòa)

Hiền + (貝; bối), Năng + (力; lực), Kham + (扌; thủ), Kế + (言; ngôn), Thuật + (心; tâm)

bài Đế hệ thi được khắc vào kim sách (một cuốn sách bằng vàng), có tên chính thức là Thánh chế mạng danh kim sách. Kim sách này gồm 13 tờ, gáy đóng bằng 4 khuyên tròn. Kim sách được làm theo khổ chữ nhật đứng [kích thước (Dài x Rộng x Cao): 23,2 x 13,7 x 1,6 cm; trọng lượng 4.232 gam]. Bìa trước và bìa sau của kim sách này dập nổi hình rồng bay trong mây, viền ngoài dập nổi hình hoa chanh 4 cánh, 4 góc trang trí dây lá cách điệu rất chi tiết, tỷ mỷ. 11 tờ ruột khắc sách văn của bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên hệ thi. Bài sách văn bằng chữ Hán được khắc trên 11 tờ bằng vàng gập đôi, khắc từ trái qua phải theo cột dọc, mỗi trang gồm 5 cột trong ô viền hình chữ nhật kép. Tại tờ thứ 7 có khắc mặt ấn "Minh Mạng thần hàn" (明命宸翰) trong khung chữ nhật kép (kích thước 3,9 x 4 cm). Bên cạnh mặt ấn có khắc thêm 8 chữ Hán cho biết niên đại của cuốn kim sách: 明命壹年正月元旦 (Minh Mạng nhất niên chính Nguyệt Nguyên đán).

Còn 10 bài Phiên đệ thi ban cho các con của hoàng thân của ta, một số hoàng thân mất sớm không có con nên không được ban. Chữ lót của mỗi đời dùng một chữ trong bài thơ, nhưng tên ở mỗi đời thì phải dùng một bộ trong ngũ hành theo thứ tự: thổ, kim, thủy, mộc, hỏa và trở lại".

1. Anh Duệ Hoàng Thái Tử (con trai trưởng của vua Gia Long):

Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng

Liên Huy Phát Bội Hương

Lịnh Nghi Hàm Tốn Thuận

Vĩ Vọng Biểu Khôn Quang

美    睿    増    彊    壯

聯    揮    發    佩    香

令    儀    咸    巽    順

偉    望    表    坤    光

2. Kiến An Vương (con trai thứ năm của vua Gia Long)

Lương Kiến    Ninh Hòa Thuật

Du Hành Suất Nghĩa Phương

Dưỡng Di Tương Thức Hảo

Cao Túc Thể Vi Tường

良    建    寧    和    術

攸    行    率    義    方

飬    怡    相    式    好

高    宿    彩    為    祥

3. Định Viễn Quận Vương (con trai thứ sáu của vua Gia Long)

Tịnh Hoài Chiêm Viễn Ái

Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha

Nghiễm Khác Do Trung Đạt

Liên Trung Tập Cát Đa

靖    懷    瞻    遠    愛

景    仰    茂    淸    珂

儼    恪    由    衷    逹

連    忠    集    吉    多

4. Diên Khánh Vương (con trai thứ bảy của vua Gia Long)

Diên Hội Phong Hanh Hiệp

Trùng Phùng Tuấn Lãng Nghi

Hậu Lưu Thành Tú Diệu

Diễn Khánh Thích Phương Huy

延    會    豐    亨    合

重    逢    雋    朗    宜

厚    留    成    秀    妙

衍    慶    適    芳    徽

5. Điện Bàn Công (con trai thứ tám của vua Gia Long)

Tín Điện Tư Duy Chánh

Thành Tồn Lợi Thỏa Trinh

Túc Cung Thừa Hữu Nghị

Vinh Hiển Tập Khanh Danh

信    奠    思    维    正

誠    存    利    妥    貞

肅    恭    承    友    誼

榮    顯    襲    卿    名

6. Thiệu Hóa Quận Vương (con trai thứ chín của vua Gia Long)

ThiệnThiệu Kỳ Tuần Lý

Văn Tri Tại Mẫn Du

Ngưng Lân Tài Chí Lạc

Địch Đạo Doãn Phu Hưu

善    绍    期    循    理

聞    知    在    敏    猷

凝    麟    才    至    樂

廸    道    允    孚    休

7. Quảng Uy Công (con trai thứ mười của vua Gia Long)

Phụng Phủ Trưng Khải Quảng

Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ

Điển Học Kỳ Gia Chí

Đôn Di Khắc Tự Trì

鳳    符    徴    啓    廣

金    玉    卓    標    奇

典    學    期    加    志

敦    彝    克    自    持

8. Thường Tín Quận Vương (con trai thứ mười một của vua Gia Long)

Thường Cát Tuân Gia Huấn

Lâm Trang Túy Thạnh Cung

Thận Tu Di Tấn Đức

Thọ Ích Mậu Tân Công

常    吉    遵    家    訓

臨    莊    粹    盛    躬

愼    修    彌    進    德

受    益    懋    新    功

9. An Khánh Vương (con trai thứ mười hai của vua Gia Long)

Khâm Tùng Xưng Ý Phạm

Nhã Chánh Thủy Hoằng Quy

Khải Để Đằng Cần Dự

Quyến Ninh Cộng Trấp Hy

欽    從    稱    懿    範

雅    正    始    弘    規

愷    悌    騰    勤    譽

眷    寧    共    緝    熙

10. Từ Sơn Công (con trai thứ mười ba của vua Gia Long)

Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm

Phu Văn Ái Diệu Dương

Bách Chi Quân Phụ Dực

Vạn Diệp Hiệu Khuôn Tương

慈    采    揚    瓊    錦

敷    文    藹    耀    陽

百    支    均    輔    翼

萬    葉    效    匡    襄

Thế + (玉; ngọc), Thoại + (石; thạch), Quốc + (大; đại), Gia + (禾; hòa), Xương + (忄; tâm)

Bạn đang đọc truyện trên: LoveTruyen.Me