Xam Xi Noi
HỘI CHỨNG CUSHING DO THUỐCPosted on November 20, 2015Đại cươngHội chứng Cushing, được Harvey mô tả lần đầu tiên vào năm 1912, chỉ các dấu hiệu và triệu chứng do glucocorticoid tự do trong huyết tương dư thừa. Glucocorticoid dư thừa có thể do sự sản xuất nội sinh tăng cao hoặc do sử dụng glucocorticoid ngoại sinh kéo dài. Trong khi hội chứng Cushing nội sinh là một bệnh hiếm gặp, hội chứng Cushing do thuốc thường gặp trên lâm sàng.Các thuốc đã được báo cáo gây ra tăng cortisol là glucocorticoid, megestrol acetate và các dược thảo có chứa glucocorticoid.Người bị hội chứng Cushing có thể phát sinh mặt no tròn (moon face), mặt ửng đỏ (facial plethora), vạt mỡ trên đòn, bướu mỡ cổ trâu (buffalo hump), béo bụng, vằn da đỏ tím (purple striae).Bệnh nhân thường bị yếu cơ đùi cơ cánh tay (proximal muscle weakness), dễ bầm dập, tăng cân, mọc lông nhiều bất thường (hirsutism), và trẻ bị chậm phát triển. Tăng huyết áp, teo xương (osteopenia), tiểu đường và chức năng miễn dịch suy yếu cũng có thể xảy ra.Tần sốHầu hết các trường hợp hội chứng Cushing đều do glucocorticoid ngoại sinh. Tỷ lệ mắc hội chứng Cushing ngoại sinh lệ thuộc theo tần số và các loại bệnh cần điều trị glucocorticoid trong một nhóm dân số. Dao động đáng kể trong tần số này được ghi nhận trong các nhóm dân số thuộc văn hóa và chủng tộc khác nhau.Tác hại/Tử vongTác hại và tử vong đi kèm với hội chứng Cushing chủ yếu liên quan đến các tác dụng của glucocorticoid dư thừa.Hai cơn bệnh thảm họa xảy ra trong tình trạng dư thừa glucocorticoid là thủng nội tạng và nhiễm nấm cơ hội. Dư thừa glucocorticoid gây ra nhiều bệnh, bao gồm tăng huyết áp, béo phì, loãng xương, gãy xương, chức năng miễn dịch suy yếu, vết thương khó lành, không dung nạp glucose và rối loạn tâm thần.Steroid ngoại sinh ức chế trục hạ đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận (Hypothalamic – Pituitary – Adrenal axis – HPA axis), mà sự hồi phục hoàn toàn mất khoảng một năm sau khi ngưng sử dụng glucocorticoid. Do đó, những bệnh nhân đang hoặc đã từng sử dụng steroid có nguy cơ phát sinh cơn thượng thận (adrenal crisis) nếu steroid bị cắt hoặc không tăng liều trong lúc bị bệnh cấp tính.Sinh lý bệnh họcTính hiệu năng sinh học (bioavailability) của glucocorticoid nằm giữa 60% đến 100%. Hơn 90% của glucocorticoid lưu thông gắn kết với globulin kết corticoid (corticosteroid binding globulin – CBG). Hormone tự do không gắn kết trong hệ tuần hoàn gắn vào thụ thể glucocorticoid (glucocorticoid receptor – GR). Thụ thể glucocorticoid bao gồm một carboxy terminal ligand binding domain, một domain binding DNA và một N terminal domain. Ngoại trừ prednisolone, vốn có ái lực với CBG bằng phân nửa của cortisol, các glucocorticoid tổng hợp khác có ái lực với CBG thấp hơn nhiều so với cortisol.Glucocorticoid gắn kết với GR cho ra một vài qui trình phiên mã (transcription) và di chuyển ngang (translation) gen nội bào, cuối cùng dẫn đến một vài tác dụng của glucocorticoid lên các mô. Một số glucocorticoid có thể tác dụng chéo với thụ thể mineralocorticoid (mineralocorticoid receptor – MR) do sự tương đồng đáng kể giữa GR và MR.Sự khác nhau về cấu trúc giữa các hợp chất glucocorticoid gây nên sự khác nhau về tính hiệu năng sinh học, thời hạn và thời điểm bắt đầu tác dụng, hiệu năng và đặc điểm chuyển hóa của mỗi sản phẩm. Điều hòa xuống (downregulation) của kích hoạt yếu tố kappa B nhân, các thay đổi trong hoạt động của enzyme adenosine monophosphate-activated protein kinase và sự điều biến (modulation) của chất kích hoạt protein 1 là một số đường dẫn quan trọng đã được mô tả. Vẫn cần tiến hành nhiều nghiên cứu hơn để hiểu biết đầy đủ các đường dẫn báo hiệu nền tảng và các phản ứng glucocorticoid tại từng mô cụ thể.Bảng 1. Tính tương đương glucocorticoid
http://emedicine.medscape.com/article/117365-overview
Trần Thanh Xuân dịch
http://emedicine.medscape.com/article/117365-overview
Trần Thanh Xuân dịch
Bạn đang đọc truyện trên: LoveTruyen.Me